ĐÁNG TIẾC HOA KỲ ĐÃ QUÊN HỘI CHỨNG VN TRONG CUỘC CHIẾN MỚI!
Trong tháng 5/04 và 6/04 vừa qua, nhiều hình ảnh tra tấn, hành hạ tù nhân cùng nghi can người Iraq tại nhà tù khét tiếng Abu Ghraib tiếp thu từ chế độ độc tài Saddam được đăng tải trên toàn thế giới bởi nhiều cơ quan truyền thông và báo chí quốc tế. Các cảnh lăng nhục trần truồng, tra tấn đến chết, hành hạ tù nhân, dùng chó săn để uy hiếp nghi can…v.v cùng các tiết lộ về các cuộc hiếp dâm tù nhân, làm tình tập thể của các cai tù cho thấy mức độ bịnh hoạn, suy đồi của cung cách hành xử quân Mỹ tại trại tù này…Một số lời phản đối và lên án cùa chính người Mỹ đã gặp sự chống đỡ rằng những gì xảy ra cũng giống như các buổi liên hoan sinh viên “frat parties” tại Mỹ mà thôi!!! ( hoặc đã được thể hiện qua các “talk shows”.)
Liền sau đó, nhóm cai tù này bị truy tố bởi toà án binh..Nhưng người ta tự hỏi có phải họ chỉ là vật tế thần cho chính sách thống trị toàn cầu của những tên phù thủy tân bảo thủ trong nguồn máy hành chính, quân sự Mỹ. Ngay cả các can phạm, họ cũng thẳng thừng trả lời và tố cáo rằng họ chỉ làm theo lệnh của cấp trên-các sĩ quan thẩm vấn quân báo và các nhân viên dân sự biệt phái, chuyên viên lấy khai thác…từ các cơ quan tình báo!!! Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền trong việc hỏi cung, giam giữ nghi can đổ lỗi lẫn nhau…Từ nghành quân cảnh sang Quân báo, từ Quân báo sang Trung ương tình báo Xê-I-A..và ngược lại…Từ tướng chỉ huy lữ đoàn quân cảnh tố ngược lên Trung tướng tổng tư lệnh các lực lượng Mỹ cùng tướng chỉ huy trung tâm giam giữ Guatanamo...Từ quân đội lần ngược lên những chủ nhân ông dân sự cụ thể là bộ trưởng Quốc Phòng Rum pheo hay cao hơn nữa.
Người ta có thể trông đợi gì ở toà án quân sự Mỹ khi nhớ về cuộc chiến Việt Nam và cuộc thảm sát Mỹ lai ở Quãng Ngãi ngày 16 tháng 3 năm 1968. Trung úy Calley-trung đội trưởng, tên chỉ huy (trực tiếp) gây ra vụ giết người tập thể độ 500 thường dân gồm người già, phụ nữ và trẻ em này ,người bị ra tòa và lãnh án chung thân khổ sai, bị giam ở quân lao Forth Leavenworth (Kansas) lại được tổng thống Mỹ Nixon ân xá vào 6 năm sau, vào năm 1974…Đại úy Medina, đại đội trưởng chỉ huy trực tiếp, có mặt tại hiện trường trong khoảng thời gian cuộc tàn sát xảy ra và 2 tên chỉ huy, trung tá Barker và đại tá Henderson (tư lệnh tiểu đoàn và lữ đoàn bay trên trực thăng chỉ huy ở cao độ 1000 bộ và 2500 bộ) được trắng án. Trong khi viên sĩ quan phi công trực thăng Thompson, người đáp chiếc trực thăng cán gáo LOH của mình xuống, báo cáo bộ tư lệnh về cuộc thảm sát đang xảy ra và ra lịnh xạ thủ đại liên trên trực thăng dùng súng uy hiếp các binh sĩ đang say máu giết người dừng lại trước khi họ thanh toát nốt những người bị thương còn sống sót cùng cứu sống một số người…sau đó bị đồng đội ruồng bỏ và cấp trên điều đi bay các phi vụ thám thính nguy hiểm, vào vùng VC và không có trực thăng vũ trang yểm trợ. Việc này chẳng khác gì ký một cái án tử hình treo cho anh ta…Nhưng rất may mắn, anh ta đã sống sót để về nước và phải đọi mãi đến 30 năm sau mới “đưọc” lãnh huân chương cao quý Soldier’s Medal của Lục Quân Mỹ cho hành động can trưòng và nhân bản này.
So sánh bản án của trung úy Calley và tên khủng bố Timothy McVeigh, tác giả cuộc đánh bom toà nhà cơ quan Liên bang ở Oklahoma city (tử hình), người ta thấy mức độ thi hành án và cách đánh giá trị “khác biệt” mạng sống của người dân “đồng minh” Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua trên đất nước ta, hay giá trị mạng sống người dân Iraq, Áp-ga-nít-tăng trong cuộc chiến ngày nay khi Mỹ chuyên bỏ bom lầm đám cưới ở hai (2) vùng đất trên so với mạng sống của ngưòi da trắng, trong trưòng hợp này là Mỹ!!!.
Đây chỉ là một phần có thể thấy đưọc của tảng băng nổi vì liền sau đó các tin tức về việc hành hạ, tra tấn tù nhân, nhà tù bí mật bởi các lực lượng đặc biệt Mỹ, quân Anh, Úc, Ba lan tại Iraq…được tiết lộ, đặc biệt là các nhà tù này hiện diện với sự cho phép của Rum-pheo. Một trong những lý do được nêu ra để biện hộ cho các hành động này là nó cần thiết để “chuẩn bị” nghi can, đập tan sức kháng cự và ý chí của họ cho các cuộc thẩm vấn-khai thác tin tức tiếp theo hầu lấy những tin tức cần thiết cho việc “tiết kiệm xương máu người Mỹ”. Và hơn nữa, đám tù nhân này bị xếp loại “phiến loạn quân thù nghịch” do đó không được hưởng quy chế Giơ-Ne cho tù binh chiến tranh. Người ta có thể biện hộ một cách vụng về rằng “Trong chiến tranh thì không thể đặt quyền con người lên trên hết”…Nếu như vậy thì việc dân chúng Fallujah kéo xác 4 người nhân viên an ninh tư tức lính đánh thuê cháy nám khi đoàn xe họ bị phục kích bắn cháy để hành hạ, tỏ lòng oán hận sẽ được phán đoán ra sao??? Nhất là khi dân chúng vùng này đã từng được nếm bom đạn Mỹ “pháo lầm” và bị quân Dù sư đoàn 101 Mỹ nổ súng bắn chết người khi họ biểu tình vì vài sự hiểu lầm nhỏ trong thời gian đơn vị này đóng quân ở đây (Họ tin rằng loại kiếng nhìn đêm NVG Mỹ có thể nhìn xuyên qua quần áo phụ nữ!!)…Hay như những người Việt Nam miền Bắc liệu họ có quyền tra khảo các phi công tù binh Mỹ tại Hỏa Lò, trong các trại tù miền Bắc để khai thác tin tức, người dân được quyền ném đá vào đám phi công này khi họ bị giải đi trên các đường phố không..?! Vì đám phi công này bị xem như “giặc lái” khi nước Mỹ không tuyên chiến với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà máy bay lại ùng ùng kéo tới bỏ bom miền Bắc, tấn công nhà máy điện cùng các hệ thống hạ tầng cơ sở khác sau sự cố vịnh Bắc bộ. Công an VC có quyền tra tấn và không áp dụng quy chế tù binh cho các toán biệt kích Sở Công tác-QLVNCH được thả ra Bắc hay Tam biên thu thập tin tức và thi hành các nhiệm vụ phá hoại hay không?!?
Thật đáng tiếc là người Mỹ đã quên dần bài học và hội chứng Việt Nam sau một thế hệ để dấn thân vào cuộc phiêu lưu quân sự mới! Các hình ảnh tra tấn làm người ta liên tưởng ngay đến các hình ảnh chiến tranh VN khi lính Mỹ giải tù nhân đeo bao cát ở cổ hay kéo lê họ sau xe bọc thép M113…Các hình ảnh người Việt nam bị tàn sát tại Mỹ lai nằm la liệt ở vệ đường, bờ ruộng. Cùng các hình ảnh lính Mỹ cười đùa với xương người, dùng sọ người trên tấm biển (xương Việt Nam… vì các xác Mỹ đều được thu nhặt từ chiến trường để tải về Mỹ) đã được nhiếp ảnh viên chiến trường lừng danh Tim Page ghi lại… và đạo diễn Oliver Stone cũng đã thể hiện trong phim “Trung đội” (Platoon) khi xương sọ người được dùng làm chân nến trong khu hầm ngủ và sinh hoạt của quân Mỹ (Ông từng phục vụ trong sư đoàn bộ binh 25 Tia chớp nhiệt đới nên các chi tiết quân sự trong phim được tái tạo một cách khá trung thực).
Hình ảnh kinh hoàng của cuộc thảm sát hơn 500 thường dân Mỹ lai đã phai nhạt khiến người Mỹ có thể tái diễn các trò tra tấn và bạo hành trong cuộc chiến mới nhân danh chống khủng bố của họ.
Nhưng sau đó, những ám ảnh của cuộc chiến Việt Nam (VN) đã trở lại với người dân Mỹ khi quân Mỹ tiến vào thành phố ổ chuột Sadr hay khu Fallujah để giao chiến cùng du kích và tổn thất nhân mạng lên cao dần. Nó gợi lại các cuộc cận chiến trong thành phố ở Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân khi các đơn vị Mỹ cố gắng đánh bật VC ra khỏi các khu đô thị-dân cư trên toàn miền Nam Việt Nam và các thành phố lớn như Sài-gòn, Huế... Người ta thấy lính Mỹ, núp dưới bờ tường, dương súng qua khỏi đầu và bóp cò, bắn hàng loạt đạn liên thanh đủ cỡ từ M16 đến trung liên M60 vào các điểm tình nghi có địch dù không thấy mục tiêu!!! Quân Mỹ xử dụng yêu thế tối đa ưu thế hỏa lực bằng cách gọi phi pháo dọn bãi “sạch sẽ” trước khi tiến lên chưa kể đến những vùng oanh kích tự do…
Hậu quả là nhiều khu vực bị tàn phá sau khi hai bên giao chiến. Ngày nay, tại Iraq với một đạo quân chuyên nghiệp được huấn luyện tốt hơn, kỷ luật hơn, nhưng lối khai hỏa áp đảo và bừa bãi vẫn được Mỹ xử dụng như xưa khiến dân thường bị vạ lây-chết oan hàng loạt và ngay cả quân đồng minh Anh cũng sợ lối tác chiến và khai hỏa…như xịt muỗi của Mỹ. Ngoài ra, quân Mỹ còn xử dụng bừa bãi chất khai hoang mà bất chấp hậu quả khiến ảnh hưởng chất Da Cam còn tới ngày nay trên các quân nhân đồng minh Mỹ, Úc và Tân Tây lan…chưa kể ảnh hưởng môi sinh trực tiếp với bãi chiến trường Việt Nam và dân tộc Việt Nam .
Mỹ không thể nào được lòng dân bản xứ tại Iraq khi họ đi vào với thái độ trịch thượng kẻ cả, ngón tay lẹ làng trên cò súng, bắt bớ, bắn giết, dùng hỏa lực bừa bãi nhưng lúc nào cũng hô hào về nhân quyền, nhân phẩm…Bài học về dân vận và thất bại của quân Mỹ trong việc bình định nông thôn ở miền Nam Việt Nam đã chìm vào lãng quên.
Người Mỹ có thể viện dẫn cuộc chiến chống khủng bố để loại bỏ việc áp dụng quy chế tù binh Giơ Ne. Nhưng đây là con dao hai lưỡi vì nó cũng có thể được áp dụng ngược lại với tù binh Mỹ trong tay các lực lượng thù nghịch. Không thể nào có tiêu chuẩn hai mang, một đặc biệt cho người Mỹ và một cho tất cả những người khác khi người Mỹ nhân danh những giá trị phổ quát của nhân loại để tiến hành cuộc chiến chống khủng bố. Những giá trị nhân bản con người cần được tôn trọng. Những vi phạm nhân danh bất cứ gì và ở bất cứ phe nào cũng đáng được kết án như nhau. Việc xử tử, hành hạ, tra tấn tù binh như CS đã làm khi bắt được người lính VNCH miền Nam hay lính Mỹ, vụ thảm sát quân cán chính Tết Mậu thân ở Huế, tra tấn giết chết trong trại cải tạo… hay các việc tra tấn VC cho đi tàu ngầm-nhấn đầu vào lu nước, treo ngược trên cây, chổng đầu xuống đất hay chặt đầu, cắt lỗ tai phơi khô, xỏ xâu đeo lủng lẳng, xử tử tại chỗ tù binh của một số thành phần trong quân đội miền Nam và quân Mỹ là ngược với tinh thần nhân bản và tình tự dân tộc. Tất cả những hành động trên của cả hai phe đều được ghi lại trong nhiều sách vở, phim và hình ảnh của cả hai bên.
Trong cuộc chiến VN vừa qua, do nhu cầu chiến lược, Mỹ đã hiện diện và chiến đấu cùng với miền Nam VN…Nhưng trong đầu óc họ, không bao giờ có một nỗ lực cho việc xây dựng một đất nước Việt Nam thống nhất, dân chủ, tự do. Họ sẵn sàng lợi dụng xương máu, lòng yêu nước, hy vọng vào một tương lai hậu chiến tươi sáng hơn của người Việt để thực hiện các mục tiêu chiến lược và chiến thuật riêng của họ để rồi rút lui khi không còn cần đến “tiền đồn chống Cộng của thế giới tự do”. Ví dụ cũ thể như các binh sĩ biệt kích ưu tú người dân tộc Tây Nguyên phục vụ thẳng MACV-SOG (Bộ chỉ huy chiến tranh đặc biệt Mỹ tại Việt Nam) và lực lượng đặc biệt Mỹ, từng sống chết với người Mỹ chỉ được tối đa 3 tháng lương-vài bao gạo cùng sự chọn lựa lệnh thuyên chuyển qua Biệt Động Quân Biên phòng VNCH hay giải ngũ khi người Mỹ rút quân. Đối với các cựu biệt kích nhảy toán ra miền Bắc sống sót hàng chục năm tù và được sang Mỹ theo diện Nhân đạo, họ phải kiện chính quyền Mỹ để được hưởng trợ cấp y tế!!! Bộ máy hành chánh Mỹ viện dẫn một lý do đúng về mặt “lý” để từ chối rằng: Họ là quân nhân của QLVNCH tức là một quân đội và chế độ đã biến mất mà không đả động gì đến việc họ chiến đấu theo kế hoạch và sự điều động của người Mỹ!!!
Những tù binh-hồi chánh viên, những người lính biệt kích gốc Bắc hay dân thượng du Tây Bắc này được huấn luyện ra Bắc để thi hành công tác với các nhiệm vụ thiên về gián điệp bao gồm thu thập tin tức, phá hoại, gieo nghi ngờ…hơn là thiết lập một mạng lưới đối kháng phôi thai để từng bước đấu tranh với sự yểm trợ của miền Nam hầu thay đổi chế độ độc tài cùng xã hội miền Bắc như miền Bắc đã làm tại miền Nam với Mặt trận Giải Phóng. Những mặt trận “ma” như Gươm Thiêng Ái Quốc chỉ nằm trong bài bản của Xê-I-A hầu quấy phá VC tại hậu phương Bắc Việt hơn là thiết lập một phong trào chống đối thực sự. Trong bối cảnh đó, những người dân đánh cá ven biển miền Bắc được các tàu biệt kích-“cán bộ mặt trận GTAQ” bắt cóc huấn luyện, “vỗ béo” tại căn cứ tưởng tượng tại cù lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng, đã phải chịu đựng oan ức bị bắt cải tạo ngay khi họ được thả về quê nhà từ tàu Hải tuần miền Nam.
Các toán biệt kích đổ bộ qua đường biển, nhảy dù hay đổ trực thăng hầu hết bị cô lập và bắt giữ sau một thời gian ngắn. Nhiều người đã chịu đựng vài chục năm tù cải tạo, không được trao trả như tù binh khi hiệp định ngưng bắn Ba-lê 1973 được ký kết hay thậm chí bị xử tử tại chỗ, hy sinh trong các điều kiện khắc nghiệt của các trại tù CS.
Khi được đưa ra Bắc, họ-những người biệt kích này-trong đó không hiếm những người yêu nước với tinh thần chống CS không được chỉ thị và huấn luyện để hòa mình, trà trộn vào đời sống hàng ngày của người dân mà phải sống cách ly trong rừng núi để theo dõi các tuyến đường chuyển quân chính từ miền Bắc sang Thượng Lào và Hạ Lào-nơi đường mòn Hồ chí Minh, con đường tiếp liệu huyết mạch của bộ đội Cộng Sản chạy vào Nam. Đôi khi, họ được nhận những kế hoạch “đầu Ngô mình Sở” từ cố vấn Mỹ như vừa thu thập tin tức vừa thi hành các kế hoạch phá rối hậu cần địch và cứu phi công Mỹ!!!! Dĩ nhiên cuối cùng, không kế hoạch nào được thực hiện trọn vẹn… Vì khi việc phá rối hậu cần CS thành công, CS lập tức huy động bộ đội, công an cùng du kích truy lùng các toán biệt kích lập tức…Nhất là dọc đường mòn HCM, có những đơn vị tinh nhuệ chuyên chống biệt kích trang bị cả với chó săn béc-giê Đức. Lúc đó việc “bỏ của, chạy lấy người”, chạy thoát khỏi lưới săn đuổi và sống sót trở thành mục tiêu chính, chứ đừng nói tới việc thu thập tin tình báo.
Như vậy, cuộc đấu tranh dân chủ hôm nay cũng đòi hỏi những người “chiến sĩ dân chủ” hoà mình vào lòng dân tộc để vận động dân trí, đem ý thức về tự do-dân chủ đến người dân, tạo dựng một mạng lưới vận động phổ biến tin tức và đấu tranh cho dân chủ. Tin tức, ý thức dân chủ cần được phổ biến và cập nhật từ Bắc chí Nam cho tất cả mọi tầng lớp trong xã hội hầu thay đổi tư duy đưa một làn song suy nghĩ mới. Đó là mặt động để thay đổi đất nước…
Từ đó người dân dần dà đòi hỏi thêm các quyền cơ bản từng cái một như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tụ họp, tự do lập hội tiến lên thành phong trào hay đảng phái. Nếu chỉ có thu thập tin tức, liên lạc ngầm với các nhân sĩ dân chủ trong nước, cùng đưa tin về họ cho các tổ chức quốc tế, quốc hội Mỹ, quốc hội Liên Âu can thiệp, ủng hộ-trao giải, khi người dân Việt Nam còn an phận bằng lòng với cái hiện tại đang có sau nhiều năm chiến tranh đói khổ thì việc dân chủ hoá đất nước còn xa nếu không nói là sẽ thất bại
Việc thay đổi đất nước cần việc vận động ngay chính đồng bào, nhân dân trong nước là những người trực tiếp sống đối mặt và chịu đựng sự kềm kẹp của đảng CSVN. Họ là lực lượng chủ động trong công cuộc dân chủ hoá đất nước cần được đánh thức dậy. Trong khi người Việt ở nước ngoài, do điều kiện địa lý-chính trị cùng các giới hạn cuộc sống hàng ngày chỉ có thể đóng góp một cách thụ động hơn. Đó là một thực tế đấu tranh không ai có thể phủ nhận được cụ thể như người ta thường than phiền về tệ nạn tham nhũng ở VN trong nguồn máy hành chính nhưng chính những người Việt tại nước ngoài nhất là Việt kiều Mỹ lại là những người móc tiền “tự nguyện” và vô tư nhất cho nhân viên cửa khẩu-hải quan khi qua các cửa khẩu sân bay, kẹp vào hộ chiếu, khi đưa hành lý đi qua dù họ không bị nhũng nhiễu gì cả…?!!? Hay cái ý thức về dân quyền (civic rights) đã được họ gác lại, bỏ quên khi máy bay hạ cánh xuống Việt Nam?!? Dù họ luôn cổ võ dân chủ pháp trị, tố cáo tham nhũng tại VN, chê bai VN lạc hậu thối nát khi có dịp!!! ./.
Minh Triết
tháng 6-2004
No comments:
Post a Comment