Thursday, July 4, 2013

GIÁO SƯ DAVID RAY GRIFFIN: BẰNG CHỨNG chính nhân viên nhà nước Mỹ Bush xắp đặt vụ khủng bố 911-năm 2001

(Evidence that US Officials Planned and Executed the Attacks)
Trong suốt 8 năm qua, biến cố ngày 11-tháng 9- năm 2001 đã thay đổi toàn diện cấu trúc quyền lực quốc gia lẫn quốc tế. Trong nội bộ quốc gia, không chỉ riêng nhà nước Mỹ, mà TẤT CẢ CÁC NHÀ NƯỚC đều đồng bộ tự gia tăng thêm quyền lực của mình mà còn được MẶC NHIÊN CHÍNH ĐÁNG HÓA VIỆC BẮT BỚ TRA TẤN NHỮNG THẾ LỰC ĐỐI KHÁNG, CHỈ TRÍCH PHÊ PHÁN NHÀ NƯỚC.. Nói cách khác, nền dân chủ bị soi mòn khắp nơi, bởi TINH THẦN DÂN CHỦ, DÂN TRÍ sa sút do tâm lý sợ hãi từ những chiến dịch khủng bố tinh thần từ CHÍNH CÁC NHÀ NƯỚC, CƠ QUAN AN NINH. Sự kiện 911 và thái độ hành xử của Mỹ cũng giúp các chế độ ĐỘC TÀI MAN RỢ như Trung Cộng, Viêt Nam v.v chính đáng hóa chính sách bắt bớ, tra tấn, đàn áp ĐỐI KHÁNG nhân danh "ổn định trật tự chống bạo loạn khủng bố" của họ.
Về mặt đối ngoại, Mỹ và các cường quốc quân sự đồng minh của họ mặc nhiên tự cho mình cái quyền được tấn công trước để ĐÁNH PHỦ ĐẦU (pre-emptive doctrine) và ĐÁNH TRƯỚC ĐỂ NGĂN NGỪA (preventive doctrine)- LHQ- HĐBALHQ- hầu như tê liệt.. Tình hình thế giới căng thẳng hơn cả thời chiến tranh lạnh từ khi Mỹ dùng lý cớ 911 để xâm lược A Phú Hãn, rồi Iraq, rồi Pakistan và vẫn đang tiếp diễn chưa chấm dứt..và cuộc chiến với Batư có thể sẽ xảy ra nay mai..Hàng triệu người dân vô tội Iarq, A Phú Hãn chết oan, hàng trăm tỉ mỹ kim đã hao tốn vào cuộc chiến, và cũng hàng trăm tỉ tiền lời được đẻ ra cho các đại công ty An Ninh-sản xuất vũ khí của Mỹ....thế nhưng "thủ phạm chính" Osama Bin Laden vẫn khơi khơi đi lòng vòng , lâu lâu lại thẩy ra một cuộn băng ghi âm hăm dọa nhăng đe dọa cuội để TIẾP TỤC nhắc nhở quần chúng Mỹ về MỐI ĐE DỌA KHỦNG BỐ trong mục tiêu CỦNG CỐ LÝ LẼ và CHÍNH ĐÁNG HÓA VIỆC XÂM LƯỢC của MỸ..
6- Bằng chứng chính nhân viên nhà nước Mỹ đã Hoạch Định và Thực Hành vụ Khủng Bố 911.
Nguồn: http://911review.com/articles/griffin/madison.html
(Đây chỉ là bản phóng dịch phần thứ 6 trong toàn bộ bản thuyết trình của GS David R Griffin)  
Bằng chứng cho lần nhận xét thứ tư này bao gồm phần lớn những nét đặc biệt của các cuộc tấn công, kết hợp với hành vi đối xử của các viên chức chính phủ Mỹ mà không thể giải thích được khi dựa trên giả thiết cho rằng những cuộc tấn công được hoạch định và thực hiện hoàn toàn do các đặc viên nước ngoài.  Tôi(GS D.R. Griffin) sẽ cho bốn thí dụ.
Sự thất bại của Quân đội trong việc ngăn ngừa những cuộc tấn công và việc Quân đội liên tục thay đổi những lời giải thích về sự thất bại của họ: Một nét đặc biệt của những cuộc tấn công gợi cho thấy sự đồng lõa của các viên chức chính phủ Mỹ là chứng cớ hai mặt của sự kiện thực tế  rằng Quân đội Mỹ đã thất bại  ngăn ngừa những cuộc tấn công của 9/11 và rồi kể từ thời gian đó, liên tục đưa ra cho chúng ta những lời giải thích đầy mâu thuẫn cho sự thất bại này.  Những câu chuyện dẫn giải  liên tục thay đổi này gợi cho thấy quân đội Mỹ đã cố gắng che giấu một thực tế rằng đã có một  lệnh "án binh bất động" đưa ra cùng trong ngày xẩy ra sự kiện 9/11 nhằm  “bãi bỏ” thủ tục quân sự điều hành thường xuyên theo tiêu chuẩn để đối phó với việc máy bay bị không tặc.
Rõ ràng là một số cơ quan, hoặc là quân sự hay các cơ quan FAA - đã không làm theo thủ tục tiêu chuẩn điều hành vào ngày 9/11.  Một khi các thủ tục điều hành được làm theo đúng tiêu chuẩn, thì cơ quan FAA, ngay khi thấy dấu hiệu một máy bay có thể đã bị cướp, họ phải tức khắc gọi cho các viên chức trong bộ chỉ huy quân đội, những viên chức này phải tức khắc gọi cho các căn cứ không quân gần nhất với số lượng phản lực cơ luôn luôn trực sẳn để đối phó, bộ chỉ huy quân đội sẽ gửi lên vài chiếc phản lưc cơ  đánh chặn máy bay đang bị cướp.  Những cuộc đánh chặn như vậy thường xẩy ra trong vòng 10-20 phút ngay sau khi những dấu hiệu đầu tiên của sự cố được phát giác.

Đây là một thủ tục thường lệ, xẩy ra khoảng 100 lần mỗi năm.  (Gần đây một trong những trá lý gian cớ  của  bài lý luận của tờ báo Cơ Khí Đại Chúng định bóc trần những hoài nghi 911, họ tuyên bố rằng từ cả một thập niên trước khi sự kiện 9/11, chỉ có mỗi một lần phản lực cơ Mỹ phải bay lên để đánh ngăn chặn đã xẩy ra , và là việc ngăn chặn một chiếc máy bay tư nhân Learjet của người chơi golf Payne Stewart.  Trên thực tế, một năm có khoảng 100 cuộc ngăn chặn đã xẩy ra, tức đã có khoảng 1.000 cuộc ngăn chặn đã xẩy ra trong thập niên vừa qua).  Thế mà ngày 9/11, lại không có một cuộc ngăn chặn nào đã xẩy ra.

Tại sao không?  Câu chuyện đầu tiên được Quân Đ ội đưa ra  rằng không có chiếc máy bay nào đã được gửi lên cho đến sau khi một góc của Ngũ Giác Đài bị tấn công trúng.  Nói một cách khác là các lãnh đạo quân đôi Mỹ đã thừa nhận rằng họ đã để máy bay chiến đấu của họ trên mặt đất trong gần 90 phút sau khi cơ quan FAA đầu tiên phát giác dấu hiệu rằng đây có thể là một cuộc tấn công của bọn khủng bố.  Chính là câu chuyện này của quân đội Mỹ đưa đến cho nhiều người suy nghỉ rằng đã có một lệnh án binh bãi bỏ thủ tục quân sự điều hành theo tiêu chuẩn hằng ngày được đưa xuống.
Đến cuối tuần, thì quân đội Mỹ lại đưa ra một câu chuyện thứ hai, họ nói rằng đã gửi lên máy bay chiến đấu nhưng vì cơ quan FAA đã thông báo rất trễ về  thông tin những máy bay dân sự bị cướp, nên khi các máy bay chiến đấu đến mỗi trường hợp thi` đã quá trễ.
Có một vấn đề với câu chuyện dẫn giài thứ hai này là nếu nhân sự của FAA đã thông báo chậm chạp như vậy, thì các chức vụ  lảnh đạo trong cơ quan FĂA đã phải bị cách chức  và  chất vấn vì trách nhiệm, nhưng lại không có ai bị cách chức hay chất vấn cả.  Một vấn đề nghiêm trọng hơn nửa là, ngay cả sự thông báo lần cuối có là thật hay giả , máy bay chiến đấu của quân đội vẫn còn đủ thời gian để đánh chặn các máy bay dân sự bị cướp trước khi chúng tấn công và đạt được mục tiêu của chúng.  Câu chuyện thứ hai này cho chúng ta thấy rõ rệt rằng cả quân đội và cơ quan FAA đã  vi phạm tiêu chuẩn thủ tục điều hành quân sự.
Để cố gắng để bảo vệ quân đội Mỹ chống lại lời buộc tội này, Ủy ban Tường Trình 9/11, thật là kinh ngạc ,đã cho chúng ta thêm một phiên bản dẫn giải thứ ba, trong đó trình bày rằng cơ quan FAA, sau khi đưa ra cảnh báo quân sự chậm trễ và thiếu sót về chiếc máy bay dân sự đầu tiên bị cướp, đã hoàn toàn không thông báo gì đến ba chiếc máy bay dân sự bị cướp kia cho đến sau khi những cuộc khủng bố đã xẩy ra.
Nhưng như tôi đã lập luận trong tập sách " Ủy BanTườngTrình 9/11: Sự Cắt Xén và Lươn Lẹo"  thì giãi thích này hoàn toàn vô lý.  Bên cạnh vi ê c mô tả các viên chức cơ quan FAA, từ trên xuống dưới là những người đần độn không đủ năng lực, Ủy Ban Tường Trình 9/11 đưa ra những tường trình lại c òn dựa trên những tuyên bố mâu thuẫn  với  rất nhiều lời khai nhân chứng khả tín được cả đôi bên thừa nhận.  Trong một số trường hợp cho thấy quá  rỏ rệt là Ủy Ban chỉ  đơn thuần là dối trá.  Ngoài ra, phiên bản thứ ba này ngụ ý rằng câu chuyện thứ hai của quân đội Mỹ tuyên bố trong gần ba năm qua, đã gần như sai hoàn toàn.  Nếu các lãnh đạo quân đội đã nói láo chúng ta qua tất cả thời gian qua, thì tại sao chúng ta phải tin bọn chúng bây giờ? Và nếu bọn quân đội nói dối chúng ta, tức bọn chúng nó làm như vậy để bao che tội lỗi của chính bọn chúng nó gây ra chứ phải không??

Tóm lại, những hành vi của bọn quân đội hai ngày 9/11 và sau đó, kết hợp với thực tế của sự kiện thi` Ủy Ban Tường Trình 9/11 đã nói dối để biện minh cho quân đội Mỹ xuất hiện vô tội, và cho thấy rằng lãnh đạo quân sự Mỹ đã đồng lỏa trong những cuộc tấn công khủng bố.   Một kết luận tương tự cũng được đặt ra sau sự kiểm tra cuộc tấn công khủng bố ở Ngũ Giác Đài. 

Cuộc tấn công ở Ngũ Giác Đài: Một trong những cuộc tranh luận về sự tấn công này là liệu có phải Ngũ Giác Đài bị tấn công bởi máy bay dân sự của hảng Hàng Không Hoa Ky` chuyến bay số 77, như lời khai báo  chính thức, hay bởi một máy bay quân sự.  Dù thế nào đi nửa thì sự tấn công thể hiện một phần tối thiểu là sự việc từ chính ở trong Ngũ Giác Đài gây ra.
Nếu chúng ta giả thiết rằng Ngũ Giác Đài bị tấn công bởi Chuyến bay 77, chúng ta phải hỏi làm thế nào mà điều này lại có thể xẩy ra.  Ngũ Giác Đài hẳn nhiên là nơi được bảo vệ tốt chắc chắn nhất trên qủa địa cầu này với ba lý do.  Đầu tiên, nó chỉ c ách căn cứ Quân Sự Không Quân Andrews một vài dặm, trong căn cứ đó có ít nhất ba đội phi công phản lực cơ liên tục ở vị trí cảnh giác và tuần phòng thường trực để bảo vệ thủ đô của nước Mỹ này.  Để ăn khớp với lời tuyên bố, một phần của câu chuyện chính thức là căn cứ Quân Sự Không Quân Andrews đã không giữ bất cứ một phản lực cơ có tiềm kích đánh chặn ở vị trí cảnh giác và đề phòng trong thời điểm sự kiện 9/11 xẩy ra!!!  Như tôi lập luận và phê phán trong Tập Ủy Ban Tường Trình 9/11, lập luận tuyên bố này là hoàn toàn giả tạo.

Thứ hai, quân đội Mỹ có hệ thống ra-đa tối tân nhất thế giới. Một trong các hệ thống ra-đa này, họ đã từng khoe khoang rằng, "không bỏ lỡ bất cứ chi tiết gì xẩy ra trong vùng không phận Bắc Mỹ".  Hệ thống này cũng có khả năng giám sát một số lượng lớn các mục tiêu khác xẩy ra cùng lúc, mà tầm phát động ra sự kiện rất cần thiết trong trường hợp của một cuộc tấn công aò ạt bằng tên lửa lớn.  Dựa vào khả năng này của hệ thống ra-đa Mỹ, những câu chuyện chính thức tuyên bố rằng chuyến bay 77 đã bay về phía Ngũ Giác Đài mà chẳng bị phát hiện trong vòng 40 phút dài trôi qua là quá  vô lý, đặc biệt là tại một thời điểm khi Ngũ Giác Đài đã biết đất nước đang bị khủng bố tấn công.  Ở giai đoạn này bất kỳ máy bay nào mà không được phép hướng tới Ngũ Giác Đài đã phải được phát hiện và ngăn chặn từ lâu, trước khi nó bay được đến gần Ngũ Giác Đài.
Thứ ba, Ngũ Giác Đài được bao quanh bởi hệ thống chống tên lửa, được điện tóan hóa lập lệnh  để tiêu diệt bất kỳ máy bay nào nhập vào không phận của Ngũ Giác Đài, trừ những máy bay có một hệ thống truyền tin hồi ứng của quân đội Mỹ.  Vậy thì  nếu, do sự may mắn, Chuyến bay 77 đã tiến vào được vùng không phận của Ngũ Giác Đài, thì nó chỉ có thể thoát khỏi bị bắn hạ khi chính quan chức trong Ngũ Giác Đài đã hạ lệnh tắt cái hệ thống phòng thủ chống máy bay lạ tấn công của nó. 
Vì thế, cho dù ngay cả khi chúng ta chấp nhận những câu chuyện tuyên bố chính thức là Ngũ Giác Đài bị trúng tấn công từ Chuyến bay 77 dưới sự điều khiển của không tặc Al Qaeda, thì chúng ta phải kết luận rằng cuộc tấn công của bọn không tặc đã thành công được vì chính Ngũ Giác Đài đã muốn cho nó thành công.
Hơn nữa có rất nhiều lý do để từ chối những câu chuyện tuyên bố chính thức từ chính quyền Mỹ.  Trước tiên, trong các tên không tặc bị cáo buộc,  thì Hani Hanjour, là một phi công tệ hại nhất, một phi công mà khả năng điều khiển máy bay rất kém lại có thể tài tình lèo lái Chuyến bay 77 để thực hiện việc tấn công Ngũ Giác Đài theo như lời cáo buộc của chính quyền Mỹ.  Thứ hai, máy bay này tấn công trúng ngay cánh phía Tây của Ngũ Giác Đài, nơi mà có nhiều lý do bọn khủng bố sẽ không chọn làm mục tiêu để tấn công một khi đã có nghiên cứu qua: tấn công cánh phía Tây cần có một phi công với kinh nghiệm thao diễn vượt bậc thì mới tấn công trúng được mục tiêu khó khăn này; và cánh phía Tây này đang được cải tiến lại, do đó rất ít người hiện diện ở khu vực này, họ là những người dân thường làm việc trong thời gian sửa sang cải tiến; việc sửa sang cải tiến gồm thêm nhiều Bê tông vững chắc, nên một cuộc tấn công vào cánh phía Tây thì chỉ  gây ra thiệt hại ít hơn là vào bất cứ một cánh nào khác trong Ngũ Giác Đài; trong khi đó tên Rumsfeld và tất cả các đầu não, người mà bọn khủng bố chắc chắn sẽ muốn giết hơn hết thì lại đang cư ngụ ở cánh phía Đông, một nơi xa hẳn khỏi  cánh phía Tây.  Một vấn đề thứ ba với câu chuyện chính thức đươc tuyên bố thì thực tế thể hiện cho thấy rằng những thiệt hại ban đầu gây ra ở cánh phía Tây đã quá tối thiểu để có thể xác định là gây ra bởi tác động phá hoại của một máy bay Boeing 757 tấn công trúng.  Vấn đề thứ tư là các bức ảnh và những nhân vật chứng kiến nơi hiện trường của hậu qủa sau cuộc tấn công không thể cung cấp bằng chứng rõ ràng nào về những chứng tích còn tồn lại của chiếc máy bay Boeing 757.  Thứ năm, sự kiện là chiếc máy bay đã không bị bắn hạ bởi hệ thống phòng thủ chống tấn công của Ngũ Giác Đài cho thấy rằng nó là một máy bay của chính quân đội Mỹ (vì có gắn hệ thống tín hiệu hồi ứng của Quân Đội Mỹ) .  Thứ sáu, có phim ảnh quay được để chứng minh rõ Ngũ Giác Đài đã thực sự bị tấn công trúng bởi một chiếc Boeing 757 hay không, nhưng cơ quan FBI đã tịch thu những đoạn phim này ngay sau khi sự kiện xẩy ra, và từ đó, chính quyền Mỹ đã từ chối công bố nó.  Vì vậy, cho dù chúng ta chấp nhận hoặc từ chối viêc Ngũ Giác Đài đã bị tấn công trúng bởi Chuyến bay 77, thì bằng chứng cũng đã cho thấy rằng ít nhất là một phần của các cuộc tấn công là một công việc thi hành từ lực lượng bên trong. 
Sự sụp đổ của các tòa nhà WTC: Chúng ta có thể kết luận là các cuộc tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới đều giống nhau. Tại sao?  Bởi vì cách sụp đổ của 2 tòa cao ốc Tháp đôi và tòa nhà số 7 đã có những thể hiện của các cuộc tự phá hủy có điều khiển, và đã được thi hành bằng cách xếp đặt hàng ngàn vật liệu chất nổ trong khắp mỗi tòa nhà.  Không có kẻ khủng bố nước ngoài nào mà có thể được đi lại và truy cập vào các tòa nhà của Trung tâm Thương mại Thế Giới mà thực thi được những việc cài đặt vật liệu chất nổ nêu trên. 
Một lý do để kết luận rằng cả ba tòa nhà đã được giật sập bằng vật liệu chất nổ là vì ngay chính thực sự là  cách sụp đổ  của nó là thế, nó đã sụp đổ vì chất nổ gây ra.  Cao ốc, nhà xây bằng cột thép sắt, trước hoặc sau khi 9/11, có bao giờ  sụp đổ là do tại lửa cháy đâu, ngay cả khi, như trong cuộc lửa cháy ở Philadelphia năm 1991 và lửa cháy ở Madrid của Tháng Hai 2005, các đám lửa cháy này còn nhiều hơn, lớn hơn, nóng hơn, lâu hơn, và dài hơn lửa cháy trong 2 tòa cao ốc Tháp đôi và tòa nhà số 7, mà các tòa nhà đó không sụp đổ.  Lý do thứ hai là bản chất cụ thể của sự sụp đổ, mỗi tính năng trong đó chỉ cho thấy chính do chất liệu nổ gây ra. Ví dụ, các tòa nhà sụp đổ thẳng xuống, và đổ ở trạng thái gần như của tốc độ rơi tự nhiên, như trong một cuộc tự phá hủy có điều khiển, và sau đó các đống vật dụng đổ nát vẩn tiếp tục cháy âm ỉ trong bao ngày tháng.  Đặc biệt đối với 2 tòa cao ốc Tháp đôi, nhiều người dân ở các tòa cao ốc cho biết họ đã nghe hoặc đã cảm thấy những tiếng nổ; hầu như tất cả các bê tông của những cấu trúc khổng lồ đã được nghiền nát thành bụi rất nhuyễn (thử thả một mảnh bê tông từ độ cao rơi xuống xem, nó chỉ đơn thuần là vỡ thành những miếng nhỏ, không thể  biến thành các hạt bụi thật nhuyễn); nhiều khối bụi nhuyễn này, cùng với các mẩu thép và nhôm, đã được gío thổi bay ra theo chiều ngang hàng chục cây số; hầu hết những thanh thép dầm và cột sắt đã sụp đổ xuống ở khoảng chiều dài 9 mét, một chiều dài thật thuận tiện để sẵn sàng chất lên xe tải chở đi ; và biết bao là số lượng của thép sắt chảy vì sức nóng đã tìm thấy được bên dưới đống vật dụng đổ nát.  Những điều này và còn rất nhiều sự kiện nửa chứng tỏ cho thấy có sự hiện diện của chất nổ rất mạnh và rất chính xác đã được sử dụng và xếp đặt vào các tòa nhà cao ốc bị tấn công.
S ự  ki ện thực tế thứ ba hỗ trợ cho lý thuyết việc tự phá hủy có điều khiển l à bằng chứng về một chủ đích cố  tình che giấu.  Nếu các thanh thép dầm và cột sắt đã thực sự bị phá vỡ bởi vật liệu chất nổ, thì khi xét nghiệm những thanh thép còn tồn lại sẽ tiết lộ được điều này để chứng minh.  Mặc dù thông thường đây là một hành vi phạm tội đối với chính quyền liên bang khi có sự thủ tiêu bằng chứng từ hiện trường xẩy ra sự việc, vậy mà các thanh thép còn tồn lại sau sự sụp đổ đã được nhanh chóng  chấ t lên xe tải chỡ thẳng và chuyễn lên boong tàu hướng nhanh đến Châu Á (Trung Quốc) thì còn đâu di tích để xét nghiệm mà chứng minh có chất nổ.
Tôi sẽ đề cập đến một trong những dấu hiệu khác của sự cố tình che giấu từ chính quyền Mỹ.  Theo một lý thuyết chính thức là tại sao 2 tòa tháp bị sụp đổ, là vì nó sụp đổ theo lý thuyết “từng lớp bánh chồng lên nhau", theo đó các tầng trên khi bị tiêu huỷ gây ra bởi các máy bay, sụp đổ lên tầng dưới, và sau đó bắt đầu một phản ứng dây chuyền.  Lý thuyết này không đủ để bắt đầu giải thích bản chất thực sự của việc sụp đổ, như một thực thể là nó đã xẩy ra hầu như ở tốc độ rơi tự nhiên.  Nhưng ngay cả khi cái lý thuyết những chiếc bánh chồng lên nhau chẳng có tí gì là chính đáng, nó cũng không giải thích được những gì đã xẩy ra cho 47 cột thép lớn là lực mạnh nồng cốt chính để chịu đựng và giử vửng trọng lượng nặng của mỗi tòa tháp cao ốc.  Các cột thép lớn này vẫn sẽ phải nhô ra đến hàng trăm mét trong không khí (giống cái trục quay chính của máy phát đĩa nhạc thời cổ, khi các đĩa nhạc sụp xuống như những chiếc bánh chồng lên nhau).  Ủy ban Tường trình 9/11 né tránh vấn đề này, qua một lý do cực kỳ không tưởng, bằng việc đơn giản phủ định như chưa từng có những cột thép lớn đó.  Sau khi tuyên bố sai lầm là hầu hết các trọng lượng của mỗi tòa tháp được tạo ra bởi các phần khung thép đúc bên ngoài của các cột thép lớn dựng lên tòa tháp, tuyên bố này hiển nhiên cho biết: "lõi bên trong của các cột thép lớn dựng lên tòa tháp là một trục thép rỗng, dựa trên đó các thang máy và các trục cột cầu thang của tòa tháp được tập hợp xây nên".  Một tuyên bố dối trá và liều lỉnh như thế này chắc chắn là dấu hiệu của sự cố tình che giấu sự thật. 
Trong bất kỳ trường hợp nào, khi chúng ta xem xét tất cả các đặc tính của sự sụp đổ, thì ý kiến cho  rằng viêc sụp đổ có thể được tạo ra do tác động đâm sầm từ một chiếc máy bay cộng với đám lửa cháy quả là ngớ ngẩn.  Điều này thậm chí thật vô lý rõ rệt hơn nửa đối với tòa nhà số 7, vì đã không bị đâm trúng tấn công bỡi một máy bay nào.  Sự sụp đổ của các tòa cao ốc này vẫn không thể giải thích rõ ràng đươc, trừ trường hợp là nó đã bị tự phá hủy bằng chất nổ có điều khiển, mà cái Ủy ban Tường trình 9/11 trong quá trình thông báo thậm chí không hề đề cập đến - như là nó không có gì đáng chú ý, một sự kiện là lần đầu tiên trong lịch sử, lửa cháy một mình đã có thể gây ra sự sụp đổ đột ngột đến một cao ốc xây dựng bằng các cột thép sắt lớn (một sự kiện qúa là phi thường đáng kể vì thực tế thì chỉ có một số ít từng lầu trong tháp cao ốc là bị lửa cháy thôi).  Tóm lại, sự sụp đổ và những câu chuyện dẫn giải để che giấu sự thật chẳng hạn như cuộc tấn công vào Ngũ Giác Đài, như sự thất bại quân sự ngăn chặn các vụ tấn công, và những câu chuyện gii thích của chính quyền thay đổi bất nhất nhiều lần khác nhau- đã chỉ ra cho thấy rằng các cuộc tấn công đã được hoạch định và thực hiện bởi chính các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự (mỹ) của chúng ta. 
Các hành vi của cơ quan Tình Báo: Tất cả những người đã xem qua cuốn phim Fahrenheit 9/11 của Michael Moore, điều biết Tổng thống Bush đang cư ngụ tại căn phòng lớp hai của một trường tiểu học ở tiểu bang Florida khi ông được thông báo về các cuộc tấn công lân thứ nhì vào Trung tâm Thương mại Thế giới.  Báo cáo này không có sơ sót gì trong việc thông báo rất rõ rệt là quốc gia đang bị những cuộc tấn công từ khủng bố.  Vậy mà tổng thống vẩn đơn giản tiếp tục ngồi ở đó.  Nhiều người đã hỏi tại sao ông ta không tức khắc phản ứng đến việc quốc gia đang bị bọn khủng bố tấn công như vai trò của một tổng tư lệnh.
Nhưng câu hỏi thực sự mà Michael Moore muốn đề cập đến là lý do tại sao cơ quan Tình Báo bí mật đã không ngay lập tức vội vàng bảo vệ Bush ra khỏi ngôi trường học để đến một nơi an toàn.  Trái hẳn với sự bảo vệ khẩn cấp cần được thực hiện, vị trí địa điểm của Bush lại được công bố công khai qua khắp các cơ quan thông tin.  Và nếu các cuộc tấn công là một sự ngạc nhiên hoàn toàn, thực hiện chỉ do những kẽ khủng bố nước ngoài, thi cái cơ quan Tình Báo bí mật sẽ không thể biết được là có bao nhiêu chiếc máy bay dân sự đã bị cướp.  Và họ sẽ phải tức khắc lo ngại cho tổng thống vì tự chức vị của ông ta đã có thể là một trong những mục tiêu của bọn khủng bố.  Với tất cả những sự kiện có thể biết được ở thời điểm đó thì các đặc viên trách nhiệm bảo vệ tổng thống, họ sẽ phải nghi ngại rằng có thể một máy bay dân sự bị bị cướp đang bay về phía nhà trường trong vài phút rất gần và sẵn sàng đâm đụng vào ngôi trường học đó.  Vậy mà các đặc viên bảo vệ này, những người được đào tạo rất cao để đáp ứng ngay lập tức trong những tình huống nguy ngại thế, vẫn thản nhiên để tổng thống ở lại trong lớp học thêm 10 phút.  Và sau đó họ vẫn để ông thực hành cuộc phát ngôn trên truyền hình theo lịch trình thường xuyên của ông, mà chẳng cần cảnh giác bảo vệ triệt để, thì bất kỳ một không tặc tự sát nào với cơ hội rộng mở thế sẽ dễ dàng hành động khủng bố mà giết hại vị nguyên thủ quốc gia.  Hành vi này chỉ có lý khi người đứng đầu cơ quan Tình Báo bí mật biết rõ các chi tiết kế hoạch cho những cuộc xếp đặt tấn công khủng bố này, không bao gồm một cuộc tấn công vào vị trí tổng thống đang cư ngụ.  Và làm thế nào người đứng đầu cơ quan Tình Báo bí mật được biết chi tiết đến như thế ngoài trừ là các cuộc tấn công khủng bố này đã được hoạch định và thực hiện bởi chính những nhân viên trong chính phủ của chúng ta? 
Mặc dù nhiều ví dụ khác có thể được đưa ra, bốn ví dụ nêu trên đủ để cho thấy rằng không có lối thoát nào cho những kết luận đáng sợ rằng sư kiên 9/11 được thiết kế bởi các thành viên của chính quyền Bush và Ngũ Giác Đài của hắn.  Tại sao họ đã làm điều này, ít nhất một phần của câu trả lời rõ ràng từ cách thức mà họ đã sử dụng 9/11 để  tiến hành chủ trương đế quốc Mỹ.  
Ngay sau khi sự kiện 9/11, trên thực tế, các thành viên của chính quyền Bush liên tục giới thiệu đến các cuộc tấn công khủng bố này như là một cơ hội-- theo lời của Donald Rumsfeld, một cơ hội "để tái tạo lại thế giới".  Nhìn thấy kết nối này giữa sự kiện 9/11 và tham vọng đế quốc của Mỹ có thể là một đánh động thúc đẩy cho chúng ta đối mặt toàn diện với  sự thật đồi bại khủng khiếp về  Đế Quốc Mỹ.

David Ray Griffin
Đông Sơn Phỏng Dịch(12/2009)

--------------------
6. Evidence that US Officials Planned and Executed the Attacks
The evidence for this fourth view consists largely of features of the attacks, in conjunction with behavior by US officials, that cannot be explained on the assumption that the attacks were planned and executed entirely by foreign agents. I will give four examples.
The Military’s Failure to Prevent the Attacks and Its Changing Explanations: One feature of the attacks that suggests complicity by US officials is the twofold fact that the US military failed to prevent the attacks on 9/11 and then, since that time, has give us conflicting explanations for this failure. These changing stories suggest that the military has been trying to cover up the fact that a “stand-down” order was given on 9/11, canceling the military’s own standard operating procedures for dealing with possibly hijacked airplanes.

It is clear that some agency—either the military or the FAA--failed to follow standard procedures on 9/11. When these procedures are followed, the FAA, as soon as it sees signs that a plane may have been hijacked, calls military officials, who then call the nearest air force base with fighters on alert, telling it to send up a couple fighters to intercept the plane. Such interceptions usually occur within 10 to 20 minutes after the first signs of trouble. This is a routine procedure, happening about 100 times a year.[26] (One of the many falsehoods in the recent debunking essay in Popular Mechanics is its claim that in the decade before 9/11, there had been only one interception, that of golfer Payne Stewart’s Learjet.[27] Actually, at about 100 a year, there would have been closer to 1,000 interceptions during that decade.) On 9/11, however, no interceptions occurred.
Why not? The military’s first story was that no planes were sent up until after the Pentagon was hit. The military leaders were admitting, in other words, that they had left their fighters on the ground for almost 90 minutes after the FAA had first noticed signs of a possible hijacking. That story suggested to many people that a stand-down order had been given.[28]
By the end of the week, the military had put out a second story, saying that it had sent up fighters but that, because the FAA had been very late in notifying it about the hijackings, the fighters arrived in each case arrived too late. One problem with this story is that if FAA personnel had responded so slowly, heads should have rolled, but none did. An even more serious problem is that, even assuming the truth of the late notification times, the military’s fighters still had time to intercept the hijacked airliners before they were to hit their targets.[29] This second story implied, therefore, that standard procedures had been violated by the military as well as the FAA.
To try to defend the military against this accusation, The 9/11 Commission Report gave us, amazingly, a third version, according to which the FAA, after giving the military insufficient warning about the first hijacked airliner, gave it absolutely no notification of the other three until after they had crashed. But as I have argued in The 9/11 Commission Report: Omissions and Distortions, this account is wholly implausible. Besides portraying FAA personnel, from top to bottom, as incompetent dolts, the 9/11 Commission’s account rests on claims that contradict many credible and mutually supporting testimonies. In some of these cases, the fact that the Commission is simply lying is abundantly obvious.[30] In addition, this third story implies that the military’s second story, which it had been telling for almost three years, was almost entirely false. If our military leaders were lying to us all that time, why should we believe them now? And if our military is lying to us, must we not assume that it is doing so to cover up its own guilt?
In sum, the behavior of the military both on 9/11 and afterwards, combined with the fact that the 9/11 Commission had to resort to lies to make the US military appear blameless, suggests that military leaders were complicit in the attacks. A similar conclusion follows from an examination of the attack on the Pentagon.
The Strike on the Pentagon: One of the debates about this attack is whether the Pentagon was hit by American Airlines Flight 77, as the official account says, or by a military aircraft. Either story, however, implies that the attack was, at least partly, an inside job.
If we assume that the Pentagon was struck by Flight 77, we must ask how this could have occurred. The Pentagon is surely the best defended building on the planet, for three reasons. First, it is only a few miles from Andrews Air Force Base, which has at least three squadrons that keep fighter jets on alert at all times to protect the nation’s capital. To be sure, part of the official story is that Andrews was not keeping any fighters on alert at that time. But as I argued in my critique of The 9/11 Commission Report, that claim is wholly implausible.[31]
Second, the US military has the best radar systems in the world. One of its systems, it has bragged, “does not miss anything occurring in North American airspace.” This system is also said to be capable of monitoring a great number of targets simultaneously, as would be necessary in the case of a massive missile attack.[32] Given that capability, the official story, according to which Flight 77 flew toward the Pentagon undetected for 40 minutes, is absurd, especially at a time when the Pentagon knew the country was under attack. Any unauthorized airplane coming towards the Pentagon would have been detected and intercepted long before it got close.
Third, the Pentagon is ringed by anti-missile batteries, which are programmed to destroy any aircraft entering the Pentagon’s airspace, except for any aircraft with a US military transponder.[33] If, by some fluke, Flight 77 had entered the Pentagon’s airspace, it could have escaped being shot down only if officials in the Pentagon had deactivated its anti-aircraft defenses.
So, even if we accept the official story, according to which the Pentagon was hit by Flight 77 under the control of al Qaeda hijackers, we must conclude that the attack succeeded only because the Pentagon wanted it to succeed.
There are, furthermore, many reasons to reject the official story. First, the alleged pilot, Hani Hanjour, was a terrible pilot, who could not possibly have flown the trajectory allegedly taken by Flight 77. Second, this aircraft hit the Pentagon’s west wing, which for many reasons would have been the least likely spot for alien terrorists to target: Hitting the west wing would have required a very difficult maneuver; this wing was being renovated, so it contained very few people, and many of them were civilians working on the renovation; the renovation involved reinforcement, so that a strike on the west wing caused much less damage than would have a strike on any other part of the Pentagon; and Rumsfeld and all the top brass, whom terrorists surely would have wanted to kill, were in the east wing, as far removed from the west wing as possible. A third problem with the official story is the fact that the initial damage caused to the west wing was far too minimal to have been caused by the impact of a Boeing 757. A fourth problem is that photographs and eyewitnesses in the immediate aftermath failed to provide any unambiguous evidence of the remains of a Boeing 757. Fifth, the fact that the aircraft was not shot down by the Pentagon’s anti-aircraft defense system suggests that it was an aircraft of the US military. Sixth, there are videos that would show whether what struck the Pentagon was really a Boeing 757, but the FBI confiscated these videos right after the strike and, since then, authorities have refused to release them.[34]
So, whether we accept or reject the claim that the Pentagon was struck by Flight 77, the evidence indicates that the attack was, at least partly, an inside job.
The Collapse of the WTC Buildings: We can conclude the same thing about the attacks on the World Trade Center. Why? Because the collapses of the Twin Towers and Building 7 had to have been examples of controlled demolition, brought about by thousands of explosives placed throughout each of the buildings. No foreign terrorists could have obtained the kind of access to the buildings that would have been required.
One reason for concluding that these three buildings were brought down by explosives is the very fact that they did collapse. High-rise steel-frame buildings have never---before or after 9/11---been caused to collapse by fire, even when, as in the Philadelphia fire of 1991 and the Madrid fire of February 2005, the fires were much larger, much hotter, and much longer-lasting than the fires in the Twin Towers and Building 7.
The second reason is the specific nature of the collapses, each feature of which points to explosives. For example, the buildings collapsed straight down, and at virtually free-fall speed, as in controlled demolitions, and then the rubble smoldered for months. With regard to the Twin Towers in particular, many people in the buildings said that they heard or felt explosions; virtually all the concrete of these enormous structures was pulverized into very fine dust (try dropping a piece of concrete from a great height; it will merely break into small pieces, not turn into very fine dust particles); much of this dust, along with pieces of steel and aluminum, was blown out horizontally several hundred feet; most of the steel beams and columns came down in sections about 30-feet long, conveniently ready to be loaded on trucks; and pools of molten steel were found beneath the rubble. These and still more effects point to the existence of very powerful, precisely placed explosives.[35]
The third fact supporting the theory of controlled demolition is evidence of a deliberate cover-up. If the buildings’ steel beams and columns had indeed been broken by explosives, an examination of the steel would have revealed this fact. However, although it is normally a federal offence to remove evidence from a crime scene, the steel was quickly loaded on trucks and put on ships headed for Asia.[36]
I will mention one more sign of a deliberate cover-up. Insofar as there is an official theory as to why the towers collapsed, it is the “pancake” theory, according to which the floors above the destruction caused by the airplanes collapsed to the floor below, which then started a chain reaction. This theory does not even begin to explain the actual nature of the collapses, such as the fact that they occurred at virtually free-fall speed. But even if the pancake theory were otherwise remotely plausible, it would not explain what happened to the 47 massive steel columns that constituted the weight-bearing core of each tower. They should have still been sticking up many hundreds of feet in the air (just like the spindle of the old-fashioned phonograph player, when the records pancaked). The 9/11 Commission Report avoided this problem, incredibly, by simply denying the existence of these columns. After saying, falsely, that most of the weight of each tower was born by the steel columns in its exterior walls, this supposedly authoritative report said: “The interior core of the buildings was a hollow steel shaft, in which elevators and stairwells were grouped.”[37] Such a desperate lie is a sure sign of a deliberate cover-up.
In any case, when we look at all these features of the collapses, the idea that they could have caused by the impact of the airplanes plus the resulting fires is ridiculous. This is even clearer with regard to Building 7, which was not hit by an airplane. Its collapse remains so impossible to explain, except as controlled demolition, that The 9/11 Commission Report did not even mention it--as if there were nothing remarkable about the fact that for the first time in history, fire alone was said to have caused the sudden collapse of a high-rise steel-frame building (an event that would have been even more remarkable given the fact that the building had fires on only a few floors).[38]
In sum, the collapses and the cover-up--like the strike on the Pentagon, the military’s failure to prevent the attacks, and its changing stories--show that the attacks must have been planned and executed by our own political and military leaders.
The same conclusion can be inferred from the behavior of the Secret Service agents with the president that morning.
The Behavior of the Secret Service: As everyone who saw Michael Moore’s Fahrenheit 9/11 knows, President Bush was in a second-grade classroom in Florida when he was informed about the second strike on the World Trade Center. This report left no doubt that the country was suffering a terrorist attack. And yet the president simply sat there. Many people have asked why he did not spring into action, assuming his role as commander-in-chief.
But the real question, which Michael Moore mentions in passing, is why the Secret Service did not immediately rush him away from the school to a safe place. Bush’s location had been highly publicized. And if the attacks were a complete surprise, executed solely by foreign terrorists, the Secret Service agents would have had no idea how many planes had been hijacked. They would have had to assume that the president himself might be one of the targets. For all they would have known, a hijacked airliner might have been headed towards the school at that very minute, ready to crash into it. And yet these agents, who are highly trained to respond instantly in such situations, allowed the president to remain in the classroom another 10 minutes. They then allowed him to deliver his regularly scheduled TV address, giving any suicide hijackers and even wider window of opportunity. This behavior makes sense only if the head of the Secret Service detail knew that the planned attacks did not include an attack on the president. And how could this be known for certain unless the attacks were being carried out by people within our own government?
Although many more examples could be given, these four are sufficient to suggest that there is no escape from the frightening conclusion that 9/11 was engineered by members of the Bush administration and its Pentagon. As to why they would do this, at least part of the answer is clear from the way in which they have used 9/11: to advance the American empire. Immediately after 9/11, in fact, members of the Bush administration repeatedly referred to the attacks as an opportunity—-in the words of Donald Rumsfeld, an opportunity “to refashion the world.”[39] Seeing this connection between 9/11 and US imperial ambitions can be a stimulus to face up fully to the awful truth about the American empire.
Fully Facing the Truth about the American Empire
To be sure, as Chomsky, Falk, and Chalmers Johnson illustrate, strong portrayals of American imperialism as far from benign can be drawn without any suggestion that the Bush administration arranged 9/11. These portrayals can be drawn from publicly available documents.
One such document is the “National Security Strategy of the United States of America,” published by the Bush administration in September of 2002. David North says, not unfairly, that this document “asserts as the guiding policy of the United States the right to use military force . . . against any country it believes to be, or it believes may at some point become, a threat to American interests.” “No other country in modern history,” adds North, “has asserted such a sweeping claim to . . . world domination.”[40]
Another such document, called “Vision for 2020,” was published in February of 1997 by the US Space Command. The mission statement at the head of this document reads: “U.S. Space Command--dominating the space dimension of military operations to protect US interests and investment.”[41] There is no mention of democracy and human rights. In the body of the document, in fact, we find this amazingly candid statement: “The globalization of the world economy . . . will continue with a widening between ‘haves’ and ‘have-nots.’” The point of this statement is that as the domination of the world economy by the United States and its allies increases, the world’s poor will get still poorer, making the “have-nots” hate America all the more. We will need, therefore, the power to keep them in line.
The United States can do this---and this is the document’s main message--through “Full Spectrum Dominance,” which will involve merging “space superiority with land, sea, and air superiority.” Dominance in space will include, the document frankly says, the power “to deny others the use of space.”
By speaking only of the Space Command’s effort to develop a “missile defense system,” the Pentagon and the White House like to suggest that its purpose is purely defensive. But the goal includes weaponizing space so as to give US forces, in the words of a more recent document, a “prompt global strike capability, whether nuclear or non-nuclear, [that] will allow the US to rapidly and accurately strike distant . . . targets.”[42] The fact that the U.S. Space Command’s program is an aggressive one is announced in the logo of one of its divisions: “In Your Face from Outer space.”[43]
Simply from these and other documents, taken in conjunction with the actions of the Bush administration and the US military, we can see through the claim that the US project of creating the first truly global empire is a benevolent or at least benign enterprise. However, we can fully grasp the extent to which this project is propelled by fanaticism based on a deeply perverted value system only when we realize that the terrorist attacks of 9/11 were orchestrated by our own leaders--and that they did this to provide the justification, the fear, and the funding for the so-called war on terror, which would be used as a pretext for enlarging the empire.
I will illustrate this point with one of the most brazen examples of the use of 9/11 to get funding. Shortly before the current Bush administration took office, a document entitled Rebuilding America’s Defenses was published by an organization called the Project for the New American Century,[44]founding members of which included Dick Cheney, Paul Wolfowitz, and Donald Rumsfeld. This document focused primarily on getting more tax money allocated for the technological transformation of the US military, with the centerpiece of this technological transformation being the US Space Command’s project to weaponize and thereby control space. Because this transformation of the US military will be very expensive, the document said, it will probably proceed very slowly--unless America suffers “some catastrophic and catalyzing event--like a new Pearl Harbor."[45] It is interesting that on the night of 9/11, President Bush reportedly wrote in his diary, “The Pearl Harbor of the 21st century took place today.”[46]
In any case, earlier that evening, Secretary of Defense Rumsfeld was on message. We might assume that he would have been disoriented by the fact that the Pentagon had just, on his watch, suffered an unprecedented attack. Instead, he was ready to use the attacks to obtain more money for the US Space Command. In front of television cameras, Rumsfeld berated Senator Carl Levin, then chairman of the Senate Armed Services Committee, saying:
Senator Levin, you and other Democrats in Congress have voiced fear that you simply don’t have enough money for the large increase in defense that the Pentagon is seeking, especially for missile defense. . . . Does this sort of thing convince you that an emergency exists in this country to increase defense spending . . . ?[47]
This strategy worked. Congress immediately appropriated an additional $40 billion for the Pentagon. Since then, furthermore, the president has gotten every additional appropriation he has sought for the so-called war on terror.
Besides being a rousing success in obtaining increased spending for military purposes, 9/11 also provided the pretext for putting many military bases in Central Asia. Zbigniew Brzezinski, in his 1997 book, The Grand Chessboard, had said that doing so would be crucial for maintaining “American primacy,” partly because of the huge oil reserves around the Caspian Sea. Indeed, it may have been from this book that the Project for the New American Century got its idea that a new Pearl Harbor would be helpful. Brzezinski, explaining that the American public had “supported America’s engagement in World War II largely because of the shock effect of the Japanese attack on Pearl Harbor,”[48] suggested that Americans today would support the needed military operations in Central Asia only “in the circumstance of a truly massive and widely perceived direct external threat.”[49] And indeed, thanks to the attacks of 9/11, the Bush administration was able to carry out its plan to attack Afghanistan—-a plan that, we now know, had been formulated several months before 9/11.[50] The White House now has a friendly government in Afghanistan and the Pentagon has military bases there and in several other countries of Central Asia.
We also know that the intention to invade Iraq existed long before 9/11 and that this intention was based on imperial designs, not disgust with Saddam’s wickedness.[51] In the Project for the New American Century’s 2000 document, we read: “While the unresolved conflict with Iraq provides the immediate justification, the need for a substantial American force presence in the Gulf transcends the issue of the regime of Saddam Hussein.”[52] The US military is now intending to build several permanent bases in Iraq, which has the world’s second largest known oil reserves. The attacks of 9/11 again provided the pretext, as the Bush administration deceived a majority of the American people into believing that Saddam was connected with Osama bin Laden and even directly responsible for the attacks of 9/11.
I suggested earlier that seeing the true connections between 9/11 and the global domination project helps us understand how fully this project reflects “fanaticism based on a deeply perverted value system.” This is a value system that is diametrically opposed to the value systems on which all the great religious and moral traditions of the world have been based. These traditional value systems say that we should not covet, steal, and murder, and that we should make sure that everyone has the necessary means for a decent life. But our government’s project for global domination is carried out in the name of the greed of the “haves” of the world to have still more, even if it means killing hundreds of thousands of people and letting millions more die every year of starvation and poverty-related diseases. We can now see, furthermore, that some political and military leaders are so fanatically infected with these perverted values that they are willing to kill thousands of their own citizens, then endlessly use a deceptive account of these terrorist attacks to justify “a war on terror,” in the name of which they claim the right to do virtually anything they wish, ignoring all principles of morality and international law.
How Should Religious People Respond?
I now turn, finally, to the question of how religious people should respond to 9/11 and the American empire. My discussion of this question must be very brief, consisting merely of four suggestions.
First, discover and then speak the truth: I would suggest that religious people should--if they have not done so already--study about both 9/11 and the American empire to see if they find the claims I have made about them true. If they do, then they should do everything in their power to make others aware of these facts.
Second, create new means to spread the truth: It is clear that the mainstream press in America is complicit in the cover-up of the truth about the American empire in general and 9/11 in particular. For example, my second book, which exposes many outrageous lies in The 9/11 Commission Report, has not been reviewed by any mainstream publication; the same was true of my earlier book, The New Pearl Harbor. There are, of course, alternative publications, both in print and on the internet, that seek to expose the truth about the American empire. Most of these, however, fail to deal with 9/11. And most of them are indifferent or even hostile to religion, so they do not provide effective organs to communicate with religious communities. Perhaps the most important thing that could be done by religious groups concerned with getting out the truth about 9/11 and the American empire would be the creation of new means of communication, means through which the total contrast between the values of the religious traditions and the values of the global domination project can be made clear. On this basis, an ecumenical religious movement to oppose the global domination project, partly by exposing the truth about 9/11, might be formed.
Third, formulate proposals for subverting the global domination project: As such a movement begins to form, it will need to decide rather concretely how to go about trying to subvert the global domination project. We need, therefore, proposals for how to do this from religious thinkers of the various tradition. I will soon, I hope, be publishing my own proposal, which is centered around the idea of global democracy.[53] Other people will favor different proposals. But I stress the importance of having such proposals from religious thinkers. It is probably only such proposals, drawing explicitly on the moral principles of the religious traditions, that will have the power to move large numbers of people.
Fourth, form alliances with other moral nongovernmental organizations (NGOs). I have emphasized that it is important for representatives from the various religious traditions who take their common moral principles seriously to join forces. Indeed, my motto is: “Religions of the world unite! You have nothing to lose by your impotence.” But it is essential, at the same time, for these religious groups to forge alliances with what we can call the other moral NGOs of the world. Whether they are working for human rights, for peace, for ecological sustainability, or some related cause, the moral principles that motivate these NGOs are diametrically opposed to the values of the global domination project. By emphasizing the moral principles that we have in common, NGOs that are and are not explicitly religious can join forces in opposing that radically immoral project.
I will close with the observation that, insofar as Americans participate in this anti-imperialist movement, their activities will be deeply patriotic, because they will be seeking to call our nation back to its moral ideals, which stand diametrically opposed to the values implicit in the global domination project.
***** ENDS *****
Notes:
1. On the idea of moral principles common to all traditions, see Michael Walzer, Thick and Thin: Moral Argument at Home and Abroad (Notre Dame: University of Notre Dame Press, 1994), and Gene Outka and John P. Reeder Jr., eds., Prospects for a Common Morality (Princeton: Princeton University Press, 1993). This idea of a common morality presupposes moral realism, according to which some basic moral principles exist in the nature of things. I have defended moral realism in “Morality and Scientific Naturalism: Overcoming the Conflicts,” in Philosophy of Religion in the New Century: Essays in Honor of Eugene Thomas Long, ed. Jeremiah Hackett and Jerald Wallulis (Boston: Kluwer Academic Publications, 2004), 81-104, and in “Theism and the Crisis in Moral Theory: Rethinking Modern Autonomy,” in Nature, Truth, and Value: Explaining the Thought of Frederick Ferré, ed. George Allan and Merle Allshouse (Lanham, Md: Lexington Books, 2005).
2. Andrew J. Bacevich, American Empire: The Realities and Consequences of U.S. Diplomacy (Cambridge: Harvard University Press, 2002), 30, 218-19.
3. Krauthammer’s statement is quoted in Emily Eakin, “All Roads Lead To D.C.,” New York Times, Week In Review, March 31, 2002.
4. Charles Krauthammer, “The Bush Doctrine,” Time, March 5, 2001, quoted in Chalmers Johnson, The Sorrows of Empire: Militarism, Secrecy, and the End of the Republic (New York: Henry Holt [Metropolitan Books], 2004), 68.
5. Robert Kagan, “The Benevolent Empire,” Foreign Policy, Summer 1998: 24-35.
6. Dinesh D’Souza, “In Praise of an American Empire,” Christian Science Monitor, April 26, 2002.
7. Charles Krauthammer, “The Unipolar Era,” in Andrew J. Bacevich, ed., The Imperial Tense: Prospects and Problems of American Empire (Chicago: Ivan R. Dee, 2003), 47-65, at 59. This track record, he says, proves that “the United States is not an imperial power with a desire to rule other countries.”
8. Noam Chomsky, Hegemony or Survival: America’s Quest for Global Dominance (New York: Henry Holt [Metropolitan Books], 2003). As shown by this and many of Chomsky’s previous books--one of which is titled Deterring Democracy (New York: Hill and Wang, 1992 [2nd ed.])--his reading of America’s “track record” is very different from Krauthammer’s.
9. Richard Falk, “Will the Empire Be Fascist?” Global Dialogues, 2003; “Resisting the Global Domination Project: An Interview with Prof. Richard Falk,” Frontline, 20/8 (April 12-25, 2003).
10. Chalmers Johnson, The Sorrows of Empire, 33, 4.
11. In light of the fact that the present lecture was delivered at the University of Wisconsin at Madison (April 18, 2005), I should point out that Bacevich discusses two left-leaning historians from whose analysis of US foreign policy he has benefited, Charles Beard and William Appleton Williams, and that Williams studied at Madison (where Beard exerted great influence) and then began teaching there in 1957, becoming the founding father of what historians have dubbed the “Wisconsin school” (see Bacevich, American Empire, 3-31).
12. Bacevich, American Empire, 7, 46.
13. Ibid., 133, 52.
14. See Chomsky’s Hegemony or Survival, his 9-11 (New York: Seven Stories, 2001), and his Foreword to Phyllis Bennis, Before and After: US Foreign Policy and the September 11th Crisis (Northampton: Olive Branch [Interlink Books], 2003); for Rahul Mahajan, see The New Crusade: America’s War on Terrorism (New York: Monthly Review Press, 2003) and Full Spectrum Dominance: U.S. Power in Iraq and Beyond (New York: Seven Stories Press, 2003); for Johnson, see The Sorrows of Empire.
15. See www.zogby.com/news/ReadNews.dbm?ID=855. This information, however, was evidently not considered news fit to print by the New York Times and other mainstream sources. Also generally unknown is the fact that already in 2002, the Atlanta Journal-Constitution, believing that Congresswoman Cynthia McKinney had charged that the Bush administration had foreknowledge of the attacks, conducted a poll that asked its readers if they were “satisfied the Bush administration had no advance warning of the September 11 attacks.” Surprisingly, 46 percent of the respondents said “No, I think officials knew it was coming.” See “Poll Shocker: Nearly Half Support McKinney's 9/11 Conspiracy Theory,” Newsmax, Wednesday, April 17, 2002 (www.newsmax.com/showinside.shtml?a=2002/4/17/144136). I discussed the McKinney episode in The New Pearl Harbor: Disturbing Questions about the Bush Administration and 9/11 (Northampton: Olive Branch [Interlink Books], 2004), 161-64, 242-44nn.
16. On the Canadian poll, see the Toronto Star, May 26, 2004. On the German poll, see Ian Johnson, “Conspiracy Theories about Sept. 11 Get Hearing in Germany,” Wall Street Journal, September 29, 2003.
17. Jean Bethke Elshtain, Just War Against Terror: The Burden of American Power in a Violent World (New York: Basic Books, 2003).
18. This interpretation is given in the most extreme, simplistic, and misleading terms in David Frum and Richard Perle, An End of Evil: How to Win the War on Terror (New York: Random House, 2003). To mention Frum and Perle as publicly endorsing the official view of the 9/11 attacks does not, of course, imply that they actually hold this view.
19. I quoted this statement in The New Pearl Harbor (henceforth cited as NPH), 69.
20. This statement is contained in the summary of the final report of the Joint Inquiry conducted by the House and Senate intelligence committees, posted at http://intelligence.senate.gov/press.htm under December 11, 2002; it is quoted in NPH, 69.
21. See The Alex Jones Show, Oct. 10, 2001; “David Schippers Goes Public: The FBI Was Warned,” Indianapolis Star, Oct. 13, 2001; and “Active FBI Special Agent Files Complaint Concerning Obstructed FBI Anti-Terrorist Investigations,” Judicial Watch, Nov. 14, 2001.
22. William Norman Grigg, “Did We Know What Was Coming?” The New American 18/5 (March 11, 2002).
23. The San Francisco Chronicle, Sept. 29, 2001. The 9/11 Commission tried to scotch these suspicions. Its most important claim is that it found that 95 percent of the puts for United Airlines were purchased by “[a] single U.S.-based institutional investor with no conceivable ties to al Qaeda” (The 9/11 Commission Report: Final Report of the National Commission on Terrorist Attacks upon the United States, Authorized Edition [New York: W. W. Norton, 2004], 499 note 130). But this argument is viciously circular. What is at issue is whether people other than al Qaeda knew about the attacks in advance, perhaps because they had helped plan them. But the Commission simply assumes that al Qaeda and only al Qaeda planned and knew about the attacks. Accordingly, runs the Commission’s logic, if the investors who purchased the put options in question had no ties with al Qaeda, they could not possibly have had insider knowledge. They were simply lucky.
24. UPI, Feb. 13, 2001; Michael Ruppert, “Suppressed Details of Criminal Insider Trading Lead Directly into the CIA’s Highest Ranks,” From the Wilderness Publications (www.fromthewilderness.com), Oct. 9, 2001.
25. William Norman Grigg, “Did We Know What Was Coming?” The New American (www.thenewamerican.com) 18/5: March 11, 2002.
26. Major Mike Snyder, a NORAD spokesman, was quoted right after 9/11 as saying that interceptions are carried out “routinely”; see Glen Johnson, “Otis Fighter Jets Scrambled Too Late to Halt the Attacks,” Boston Globe, Sept. 15, 2001 (http://nl.newsbank.com/nl-search/we/Archives?p_action=print). With regard to the figure of about 100 times a year, the FAA has reported that there were 67 interceptions between September 2000 and June 2001 (FAA News Release, August 9, 2002, cited in William Thomas, “Pentagon Says 9/11 Interceptors Flew: Too Far, Too Slow, Too Late,” in Jim Marrs, Inside Job: Unmasking the 9/11 Conspiracies [San Rafael: Origin Press, 2004], 145-49).
27. This “fact” in the cover story of the March 2005 issue of Popular Mechanics, “9/11: Debunking Myths,” is typical of the quality of research provided by its “senior researcher,” 25-year old Benjamin Chertoff, cousin of Michael Chertoff, the new head of the Department of Homeland Security (see Christopher Bollyn, “Ben Chertoff of Popular Mechanics: Cousin of Homeland Security Director, Michael Chertoff,” www.911wasalie.com/phpwebsite/index.php?module=pagemaster&PAGE_user_op=view_page&PAGE_id=33). Young Chertoff’s debunking article, published shortly after a coup at this Hearst-owned magazine in which the editor-in-chief was replaced (see Christopher Bollyn, “The Hidden Hand of the C.I.A. and the 9/11 Propaganda of Popular Mechanics,” www.rumormillnews.com/cgi-bin/members/forum.cgi?bem=67011), has itself been effectively debunked by many genuine 9/11 researchers. See, for example, Jim Hoffman, “Popular Mechanics’ Deceptive Smear Against 9/11 Truth,” http://911review.com/pm/markup/index.html, and Peter Meyer, “Reply to Popular Mechanics re 9/11,” www.serendipity.li/wot/pop_mech/reply_to_popular_mechanics.htm. To be sure, these articles by Hoffman and Meyer, while agreeing on many points, take different approaches in response to some of the issues raised in Chertoff’s article. But both articles demonstrate--in their distinctive points as well as the points they have in common--that Popular Mechanics owes its readers an apology for publishing such a massively flawed article on such an important subject. (As a professor, I would give it a D-, unless, of course, it had been written for a class in the art of composing effective propaganda, in which case a grade of B- would be assigned--nothing higher because its distortions and outright falsehoods can be so easily exposed by anyone knowing much about the topic.)
28. See David Ray Griffin, The 9/11 Commission Report: Omissions and Distortions (Northampton: Olive Branch [Interlink Books], 2005), 141-43 (this book is henceforth cited as 9/11CROD).
29. See 9/11CROD, 143-51.
30. My accounts of the Report’s lies aimed at defending the US military’s behavior, which I cannot even begin to summarize here, fill Chapters 12-16 of 9/11CROD.
31. 9/11CROD, 159-64.
32. Thierry Meyssan, Pentagate (London: Carnot, 2002), 115, quoting “PAVE PAWS, Watching North America’s Skies, 24 Hours a Day” (www.pavepaws.org).
33. Thierry Meyssan, 9:11: The Big Lie (London: Carnot, 2002), 112, 116.
34. For my discussion of these problems in the official story, see either Chapter 2 and the Afterword of NPH (updated edition) or Chapter 3 of 9/11CROD. Confirmation from the Department of Justice that such videos (from the Citgo Gas Station and the Sheraton Hotel near the Pentagon) do exist is provided at http://www.flight77.info/pics/2.jpg.
35. For discussion of these features of the collapses, see NPH, Chapter 1 and the Afterword (updated edition), or 9/11CROD, Chapter 2.
36. See NPH, 20, 177; 9/11CROD, 30.
37. The 9/11 Commission Report (see note 23, above), 541 note 1.
38. See NPH 20-23 or 9/11CROD 28-32.
39. “Secretary Rumsfeld Interview with the New York Times,” New York Times, October 12, 2001. Condoleezza Rice made a very similar comment, which is quoted in Chalmers Johnson, The Sorrows of Empire, 229. Also The National Security Strategy of the United States of America, published September 2002, frankly said on page 28: “The events of September 11, 2001 opened vast, new opportunities” (www.whitehouse.gov/nsc/nss.html).
40. David North, “America’s Drive for World Domination,” in Bacevich, ed., The Imperial Tense, 66-77, at 66.
41. This document, which was signed in February 1997 by then USAF Commander in Chief Howell M. Estes III, was at one time available at www.spacecom.af.mil/usspace. This website is, however, no longer functional. Also, although the US military has a website devoted to “Joint Vision Historical Documents” (www.dtic.mil/jointvision/history.htm), the February 1997 document is not included. There is a document from May of that year entitled “Concept for Future Joint Operations,” which is subtitled “Expanding Joint Vision 2010.” The website also has that previous document (Joint Vision 2010), which was published during the tenure of General John Shalikashvili as Chairman of the Joint Chiefs of Staff (1993 to 1997). But it as if the document from February 1997 never existed; perhaps it was later deemed too candid. However, at this writing it could still be found on the website of Peace Action Maine (http://www.peaceactionme.org/v-intro.html). And it was discussed in Jack Hitt, “The Next Battlefield May Be in Outer Space,” The New York Times Magazine, August 5, 2001.
42. Air Force Space Command, “Strategic Master Plan FY06 and Beyond,” October 1, 2003 (www.peterson.af.mil/hqafspc/Library/Library.asp).
43. Quoted in Hitt, “The Next Battlefield May Be in Outer Space.”
44. The Project for the New American Century, Rebuilding America’s Defenses: Strategy, Forces and Resources for a New Century, September 2000 (www.newamericancentury.org).
45. Ibid., 51.
46. This according to the Washington Post, Jan. 27, 2002.
47. Department of Defense News Briefing on Pentagon Attack (www.defenselink.mil/cgi-bin/dlprint.cgi), quoted in The New Pearl Harbor, 100.
48. Zbigniew Brzezinski, The Grand Chessboard: American Primacy and Its Geostrategic Imperatives (New York: Basic Books, 1997), 24-25.
49. Ibid., 212; cf. 35-36.
50. See NPH 89-92 or 9/11CROD 122-28.
51. See NPH 92-95 or 9/11CROD 129-34.
52. Rebuilding America’s Defenses, 14.
53. Fair-minded people will, of course, wait until I have actually published this proposal, with my explanations of what I mean--and do not mean--by “global democracy” and why I believe it to be necessary, before they proceed to offer criticisms of it.

David Ray Griffin is author of New Pearl Harbor: Disturbing Questions About the Bush Administration and 9/11 and The 9/11 Commission Report: Omissions And

No comments:

Post a Comment