Friday, April 26, 2013

Quạt Một Lần Cờ



(Chuyên cờ quạt Việt Tân bịa đặt “lịch sử” Giẻ Rách ba que)
Nguyên Khả

Ngày xưa ông già Khổng dạy học trò việc ứng xử “chính chị” rằng:
· Xét việc của Vua, mà xét quá nó không nghe, đâm sẽ bị nhục! Xét việc của Bạn mà Xét quá nó ghét, đâm tình nghĩa "sơ tán" cả!!!
Vì vậy, Cứ dùng cái ngay thẳng đúng đắn mà xét. Không được thì "một lần rồi thôi vậy"! Chứ không ì xèo đâm nhục, phí giờ cả ra!
· Sự Quân sác, tư nhục hỹ. Bàng hữu sác, tư sơ hỹ! Trung cáo nhi thiện đạo chi. Bất khả tắc chỉ. Vô tự nhục yên!  (Luận Ngữ)

Kể ra cái ông già ấm ớ này, gàn giở lẩm cẩm mà cũng có lý. Chuyện cờ quạt ba que giẻ rách giẻ lau, Tôi cũng đã nhiều lần xét khá kỹ.. bằng hữu đồng chí, đồng bào ..họ la toáng lên xỉ vả, chụp mũ hăm dọa đủ cả.  Nhưng việc công nghĩa đạo lý, biết mà không nói là bất nghĩa, nói mà không nói hết là bất nhân.. cho nên Tôi cũng đành lấy hết sức nhỏ tài sơ trí thiển nói một lần cho ngay thẳng rồi thôi..

Việc “nguyên ủy” cũng là tại cái ông nhà giáo già, còn là sử gia nữa cơ, Trần Trọng Kim, với tâm thức dân tộc bảo thủ và bảo hoàng, mon men bước vào cuộc chính trị trong buổi tương tranh giao thời giữa tư tưởng dân chủ và quân chủ phong kiến. Ông đã trở thành thủ tướng đầu tiên và cuối cùng của một đế quốc vừa hồi sinh đã ..vội chết! “Đế Quốc Việt Nam”, chính là tên hiệu mà chính phủ của ông đẵ đặt cho 3 miền thuộc địa “cựu Đại Nam” khi được Nhật “trao trả độc lập” ngày 11-3-1945 (sic). “Đế Quốc Bất Hạnh” này chỉ sống từ 11-3- đến 25-8 -1945 khi Bảo Đại thoái vị -đúng 168 ngày. (mẹ khỉ! Tên nước mà lại đặt là “Đế Quốc Việt Nam”!!! Đủ biết trình độ và tầm hiểu “chính chị” của ông giáo sư thủ tướng theo chủ nghĩa ái quốc dân tộc cỡ nào rồi!)

Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi của ông, có viết như sau:

“Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ (!?), thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài “Đăng Đàn”,  là bài ca rất cổ mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ trước khi có bài nào hay hơn và có ý nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.

Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gởi về . Có kiểu lá cờ vàng quẻ Ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ.
Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách “Quốc Sử Diễn Ca” nói khi bà Triệu Ẩu  (*** Triệu Ẩu, Ẩu ở đây trong tiếng Hán-Việt có nghiã là "con Mụ" vì lúc đó quân Đông Ngô cay cú bà và miệt thị bà Triệu.  cho nên gọi bà là con "Mụ Triệu" trong lúc thách chiến. Nhưng với lòng quân sĩ Tầu họ sợ Bà, gọi Bà là Lệ Hải Bà Vương, nghĩa là gặp là hãi sợ. Tên thật của bà là Triệu Thị Trinh, có sách viết là Triệu Nguyên.-Góp ý chú thích của bạn Tranh Hùng) nổi lên đánh quân Tầu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng “Đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ phương Nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.

Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nước nhà, lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ Ly là có đủ các ý nghĩa.

Song có người nói: Cờ quẻ Ly là một điềm xấu cho nên thất bại, vì ly là lìa. Ly là lìa là một nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ Ly là quẻ. Và việc làm của một chính phủ là cốt ở cái nghĩa lý, chứ không phải sự tin nhảm vô ý thức.

Việc thất bại là vì tình thế chứ không phải vì lá cờ. Giả sử dùng lá cờ khác mà trong hoàn cảnh ấy có thay đổi đuọc gì không?
(Trần Trọng Kim, “Một Cơn Gió Bụi” Vĩnh Sơn  SaiGon 1969, tr 36)

Ở đây, Tôi xin được xét về cái gọi là bản “quốc ca” trước, rồi ta sẽ bàn rộng hơn về “quốc kỳ” sau.

1-“Quốc ca Đăng Đàn” là gì?

Thật ra  bài “Ðăng đàn” không phải là quốc ca quốc kéo gì cả  theo đúng nghĩa mà chúng ta ngày nay quan niệm. Bài “Đăng Đàn” cung này là một điệu nhạc cổ đã có từ thời Nguyễn Ánh, cho lệnh soạn ra khi lên đăng cơ làm vua.  Nguyên nghĩa của chữ Đăng Đàn là để chỉ việc hành cử  tế  lễ "đăng đàn" (bước lên đàn bục) của vị chủ tế để hành lễ. Và cũng dùng trong cung đình mỗi khi vua du xuân hoặc khi xa giá từ Đại Nội lên đàn Nam Giao vào thời đó. Nó chỉ là nhạc “thiều”soạn theo lối nhã nhạc bằng “ngũ âm” (Xàng Xê Cống Xự Líu). Vì thế chắc chắn phải trang nhã, nhưng chỉ là nhạc thôi chứ không có lời. (Quí bạn nào hay xem phim lịch sử Hàn Quốc, trong những cảnh “trang nhã lê nghi”  thường thấy một điệu nhạc “buồn ngủ” ò e.. là có thể mường tượng ra cái “nhã nhạc” của Ta học của Tầu như thế nào)

Theo lời kể của ông Lê Văn Lân trong ”QUỐC KỲ VÀ QUỐC CA VIỆT NAM- TRONG NỬA ÐẦU THẾ KỶ 20 QUA” mãi  đến thời Bảo Đại về nước năm 1932, bản nhạc mới được đặt lời do ông Ưng Thiều viết  dùng để nghênh đón Bảo Đại.  Bốn câu mở đầu bài là :
Dậy, dậy, dậy mở mắt xem toàn châu
Đèn khai hóa rọi khắp toàn cầu
Ngọn đường thông thương ngàn dặm
Xe tàu điện, tàu nước, tàu bay...

Như vậy, bài này không phài “quốc ca”  trong ý nghĩa lời ca của quốc dân, tiêu biểu cho ý chí của một dân tộc và  phổ cập của mọi ngưòi công dân, mà chỉ là nhạc cung đình và có “quốc thể” của bọn vua chúa theo tính quân chủ đế quốc mà thôi. Cái ý niệm (concept) “quốc ca” thời này chưa hiện hữu. Ít nhất là ở xã hội Ta và Tầu.

2- Quốc Kỳ hay là cờ gì?

Ông Trần Trọng Kim, và những ngưòi sau này, sử dụng  câu:

"Ðầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha"... (VNQSDC)
  
Tả cảnh  bà Triệu Thi Trinh xuất quân đánh giặc Tầu trong Ðại Nam Quốc Sử diễn ca để chứng mình mầu vàng là mầu “quốc kỳ” và là mầu của chính thống. Nhưng ở đây, trong trường hợp bà Triệu chắc chắn đây không phải là quốc kỳ (vì ý niệm quốc kỳ thời này chưa hiện hữu), và cũng không phải là vương kỳ hay đế kỳ, mà có lẽ chỉ là soái kỳ. Bà Triệu chưa làm Vua, chưa lập kinh đô, chỉ kháng chiến chống  quân Tầu (Đông Ngô do tưóng Lục Dận thứ sử Giao Châu thống lãnh) được có mấy tháng, rồi thua, phải tuẫn tiết.

Theo sách “Lễ Ký" bàn chép về  Bát Quái  trận, cờ làm vương hiệu soái quyền trung quân Hoàng Kỷ (vàng); tiền quân Điều Kỳ (đỏ) ; hậu quân Huyền Vũ kỳ (đen), tả quân Thanh Long kỳ (xanh), hữu quân Bạch Hổ kỳ. Ngưòi Á đông xưa, theo binh pháp điều quân từ trung ương phát lệnh tiến thoái bằng cờ hiệu cho nên Bà Triệu cỡi voi ở trung quân giữ cờ vàng.

Thế thì,  chỉ vin vào một cái cờ vàng của bà Triệu chỉ huy trận kháng chiến đánh Tầu đông Ngô năm 248 sau Tây lịch, rồi cho đó là tiêu chuẩn chính thống để thành lập “quốc kỳ”... thì e nó hồ đồ không được ổn.Vậy còn trước đó Bà Trưng làm vua 3 năm (40-43), đóng đô ở Mê Linh, vương kỳ của bà mầu gì? Và sau đó bao nhiêu đời vua chúa phong kiến nối nhau, vương kỳ của họ mầu gì, hình dáng ra sao? Chẳng ai biết vì chẳng ai ghi lại. Bởi ý niệm “quốc kỳ” đã có đâu! Cờ quạt chưa bị “quan trọng hóa” để phủ xác người như bây giờ!

Nhưng ta được biết  lệ thường ở phương Đông trong  4 nưóc đồng văn gần cận ảnh hưởng với nhau có lệ viết chữ lên cờ phướn để dương oai danh, diệu vũ dũng. Như vậy khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi  Hoàng Đế đầu tiên (Đinh Tiên Hoàng) đặt tên nưóc là Đại Cồ  Việt  (968 – 980) chắc chắn có đế kỳ, màu gì chưa rõ, nhưng có thể tự tin mà nói rằng cờ có thêu, hoặc vẽ chữ “Đại Cồ Việt” cắm ở thành Hoa Lư.

Đến đời Quang Trung hoàng đế, đánh quân nhà Thanh với chiến sử Đống Đa, ta mới nghe nói đến chứng cớ “cờ đỏ” có thêu chữ Nôm, “Quang Trung Hoàng Đế”.. “Đế kỳ oanh liệt” 1789-1802 là cờ đào (đỏ), nhưng để dương oai trận địa cho triều đại phong kiến chứ không phải tiêu biểu cho xứ sở xã hội  “quốc kỳ”.

Mà nay áo vải cờ đào
Cùng dân dựng nưóc xiết bao công trình”Ai tư vãn, Ngọc Hân

Đến Cao Bá Quát  khởi nghĩa  năm 1854 – 1855 ở Mỹ Lương chống lại triều đình nhà Nguyễn, cũng phất cờ có vẽ chữ “Bình Dương Đồ Bản vô Nghiêu Thuấn, Mục Dã Minh Điền hữu Võ Thang”  để nêu cao chính nghĩa, tuyên cáo nguyên nhân và  mục đích của nghĩa quân. Ta đã thấy mục đích của Cờ là minh định công bố chủ trương, nó có tính rõ ràng hiên ngang, uy vũ và đường bệ (majestic). Chứ đâu phải thì thụp trốn tránh như cái cờ ĐẠI NAM nham nhở viết nghiêng phải nhờ thằng bá vơ xoay lại để đọc!

Nhưng điểm chính Tôi muốn nói ở đây là dù là cờ gì, như thế nào, thì ý niệm Cờ cũng không “quan trọng” trong vị thế quốc gia như chúng ta quan niệm và xử dụng từ khi chủ nghĩa quốc gia nhà nước (Nationalism, Statism) ra đời như hôm nay. Cho nên hầu hết trên thế giới phải đợi đến thế kỷ 18 trở đi, cờ quạt mới được chú ý và “rầm rộ”. Và Việt Nam ta không là ngoại lệ và lẹt đẹt đi sau. Chẳng ai để tâm quan trọng cho nên sử sách cũng chẳng ghi chú rõ ràng. Đinh, Lê ,Lý Trần Lê, Tây Sơn, Nguyễn v.v Chẳng ghi chép tỉ mỉ làm chi cái tấm vải mầu mè.

Mãi đến khi bị đô hộ, kẻ đô hộ dùng cờ dương oai minh định thanh thế, kẻ bị trị với ý chí vùng lên cũng mới bắt đầu nhập cuộc chơi “cờ!”

Vì vậy mà trong suốt  thời kỳ giao tranh rồi khi bị toàn trị, thành thuộc địa, cờ quạt không ra làm sao, và cũng chẳng ai quan trọng hóa nó “linh thiêng” linh tháo, hồn vía tổ quốc tổ cò dân tộc dân téo gì gì hết.
Từ khi đất nưóc hoàn toàn nằm dưới ách thống trị của Pháp, một quốc gia đi trước trong chủ nghĩa “cờ quạt” (1789) nhưng sau Mỹ (1776), người ta thấy đất Nam kỳ (sau Hoà ước Giáp Tuất 1874) đã trở thành thuộc địa nên phải chào cờ Pháp (Tam Thể, Tam Sắc hay ba mầu) của mẫu quốc Pháp.  Còn Triều đình Huế, sau khi thua, ký Hàng ước (Patenôtre 1884) với Pháp tại Huế, chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp và nước Pháp thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại kể từ ngày 6-6-1884 ...Thì nước Việt ta lại “bị có” hai 2 lá cờ . Cờ của vua nhà Nguyễn (vương kỳ) dùng ở Triều đình Huế, có màu vàng, góc trái có thêu hình “rồng năm móng”. Còn ở công sở, là "nô lệ kỳ" hay “thuộc địa kỳ”- cờ vàng không có rồng năm móng, nhưng là hình cờ Pháp ở góc.  Toàn bộ đất nưóc ta lúc bấy giờ từ năm 1884 đến năm 1945 tình hình cờ quạt "chính thống" là như thế. Cũng dễ hiểu, vì một đất nước lạc hậu, trình độ dân chúng chẳng có khái niệm gì cờ quạt chủ nghĩa, lại đang bị nô lệ, thì không thể khác hơn.

Ta cũng chẳng có dấu tích hay chứng tích gì rõ rệt, chỉ là nghe những ngưòi sống vào thời đó kể lại. Ta chỉ biết chắc chắn một điều là triều Nguyễn do Gia Long dựng lên rất nô lệ văn hóa nhà Thanh, bắt chưóc gần rập khuôn nhà Thanh.. Cho nên Tôi đoán rằng cái hình “Rồng Năm Móng” cũng bắt chưóc của nhà Đại Thanh đại để như trên hình tôi dẫn ra. (Đế Kỳ Long Tinh của Thanh Triều 1782-1890.)
 Cũng theo sự ghi nhận của Lê Văn Lân:
· Tôi đã đặc biệt nhớ đến lá cờ Long tinh được chính thức ban bố làm quốc kỳ có nền vàng ở giữa có một vạch đỏ chạy dọc, vạch này dày khoảng 1/3 chiều ngang của lá cờ. Sở dĩ tôi còn nhớ như vậy là vì lũ học sinh tiểu học chúng tôi phải làm thủ công hay được phát lá cờ này khi có lễ lạc đón tiếp hay được đi diễn hành trước cửa Ngọ môn chúc mừng lễ Vạn thọ của vua Bảo Ðại hằng năm. Nhà vua sanh vào ngày 22 tháng 10 năm 1913(Quí Sửu). Mỗi khi phất cờ thì chúng tôi phải đồng thanh hô lớn: "Hoàng đế vạn tuế".
·Theo ông Quốc Duy Nguyễn Văn An trong tài liệu dẫn trên, cờ này do Tứ trụ của Cơ Mật viện triều đình Huế (thành lập từ 1834) bàn và ấn định "lấy nền vàng và thêm một gạch son trên ấy để biến thành lá cờ Long Tinh tiêu biểu cho uy quyền Triều đình Quốc gia trên hai phần đất còn lại của Việt Nam (Bắc và Trung) trong suốt thời Pháp thuộc". 
·Theo Tuệ Quang Tôn Thất Tuệ, lá cờ Long tinh nói trên sở dĩ có là vì "Thời đệ nhị thế chiến (1939-1945), trước áp lực của Nhật, thực dân Pháp tìm cách thoa dịu người Việt. Thừa cơ hội đó, vua Bảo Ðại lần đầu ban chiếu ấn định quốc kỳ và quốc ca" (trích bài "Góp ý với ông Phan Tuấn Triết về Cờ Vàng Ba sọc đỏ" của T.T.Tuệ - 14/10/1996). “
· Dựa theo bài "The Ðăng Ðàn Cung Hymn" của cụ Nguyễn Khoa Toàn, cựu Ðại sứ của Quốc gia Việt Nam tại Thái Lan, viết ngày 15 tháng 11 năm 1952 thì nhu cầu đặt cho Việt Nam một lá quốc kỳ cũng như quốc ca có lẽ vào dịp vua Khải Ðịnh qua Pháp vào ngày 15 tháng 5 năm 1922 để dự cuộc Ðấu xảo Quốc tế ở Marseille, đồng thời mang Hoàng tử Vĩnh Thụy mới 9 tuổi gửi gắm cho ông cựu Khâm sứ Charles để lưu học tại Pháp. Nên có thể cờ Long Tinh đã được manh nha dự định chế ra cho Việt Nam nhân dịp này chăng?
Như vậy ngay cái cờ “Long Tinh” (vía rồng, khí rồng- độc gỉa để ý hình con rồng người Tầu vẽ luôn luôn khè cái cục ‘tinh” mầu đỏ chói lơ lửng ra từ “mõm rồng” ) cũng chỉ là ý niệm, ý định “mới” ở thời “Mạt Nguyễn” mà thôi .. Nó chỉ được hình thành và sử dụng trong vài năm cuối của triều đại nhà Nguyễn thôi. Còn cái cờ “Long Tinh Tròn” (hình bên) thì chỉ là loại soái kỳ cờ phưón gì đó .. (quí độc giả hay xem phim bộ cổ trang của Hồng Kông, Tầu lâu lâu sẽ gặp loại cờ này trong các trận đánh ì xèo!!! Riêng Nhật thời phong kiến thì cờ xí rùm beng hơn, soái kỳ có hình thể biểu trưng riêng của giòng quân phiệt)
Vậy mới thấy cái cờ “ba que quẻ càn” kiểu tưởng tượng (như John Lenon (Imagine)  mà Việt Tân và cái tên "da trắng đầu đen mũi tẹt" nào đó bảo rằng có từ năm 1890-1920 quả là trò “ảo thuật” của đám trẻ mới học nghề bịp kiểu Sơn Đông mãi võ. 
Nếu nó có thật, vậy phất phới bay trong 30 năm mà sao chẳng ai hay biết và nhớ? Cả đến gã “Vua”, hoàng đế nô lệ, Bảo Đại, dù là chỉ biết ăn nhậu và chơi gái, nhưng là vua thứ thiệt, cũng không biết là nước của mình có cái của quí “quốc kỳ” đó. Mà thôi, vì là vua Bảo Đại vô trách nhiệm chỉ giỏi cai đàn bà, (mà lại toàn đàn bà đẹp và sang, thì cũng kể là bản lãnh và tài lớn hơn Hồ Chí Minh, hơn Tôi ở cái khoản này. Bố khỉ người viết mơ mà không được!) nên không để ý. Thế còn ông thủ tưóng giáo sư, sử gia, cũng không biết là nước ta có cái “của quí ấy” bay phần phật suốt cả 30 năm dài ngay trong thời mình trưởng thành rồi tham chính làm việc.  Mà NÓ lại là “quốc kỳ” cơ đấy nhé!  nghĩa là lồng lộng công khai, có rất nhiều cái treo nhiều nơi, hầu như mọi người đều nhìn và biết vì dùng treo hàng ngày, chứ nào có phải cái quần lót riêng tư của ông Vua bà Chúa treo trong nhà, cất trong tủ đâu! Cờ, Nó đâu phải vòng vàng châu báu cất dấu, hay "nghiên mực tức mặc hầu," hoặc ấn quốc bảo duy nhất, bị cất trong tủ, trong kho của triều đình đâu. Nó là “quốc kỳ ” hay dù là thuộc địa kỳ (như cờ của các Bang Mỹ, Úc trong thời đế quốc Anh) thì vẫn cứ rõ ràng treo nhiều nơi phổ biến công cộng  v.v Thế mà chẳng ai biết, chẳng ai nhớ!!! Đến nỗi ông sử gia, giáo sư, thủ tướng và cả cái nội các khoa bảng hàng đầu kia, phải nặn đầu gãi tai, bàn thảo với đủ lý cớ gàn bướng để vẽ ra cái cờ quẻ Ly “đế kỳ”.. rồi bạc mệnh xấu số sống chỉ được 168 ngày. Và rồi phải đợi đến hơn 80 năm sau (từ 1920 đến 2004), mới có thằng tây tóc đen mũi tẹt ”phát hiện” lén bỏ vào trang mạng và Wikipedia.. rồi được một gã Việt Tân khám phá -Ì nô vay tờ- (innovator) tung hê ra, cả cái phương cách xoay vòng để hiện ra chữ ĐẠI NAM quái đản nham nhở nữa.
(đế kỳ Long Tinh Thanh Triều 1890-1912)
Dân Việt Nam, từ thằng có học cho đến dân đen, quả là vô tâm đần độn. “Mất nước nô lệ”  là đáng đời! Đến cái “cờ tổ quốc tổ cò” vàng khè như vậy, treo trước mặt nhiều nơi trong suốt 30 năm ròng (1890-1920) cũng không biết, không nhớ, lại để 80 năm sau cho thằng Tây nó thẩy lên mạng, nhét vào trang Wikipedia, rồi nhẩy cà tưng ôm vào làm của linh thiêng. Nhưng không chịu hỏi nó xem nó lấy nguồn sử dẫn chứng từ đâu, dấu tích, di tích bằng chứng “khảo cổ”như thế nào..Nó chỉ nói khơi khơi kiểu nhà nước...là đủ!!! Bố khỉ, dân đã ngu đần vô tâm vô tính, mà cả đến các sử gia tầm cỡ như Trần Trọng Kim thời trước, rồi sau này như Phạm Văn Sơn, bây giờ Vũ Ngự Chiêu v.v có  biết “nhục” với cái thằng tây tóc đen mũi tẹt nào đó không? Sao không thấy lên tiếng nhỉ? Hay là thấy nó trẻ con nham nhở quá nên không chấp chăng?  Nếu vậy cũng đúng..nhưng BẤT CÔNG VÔ TRÁCH NHIỆM..!!! 

Đến cái “chứng cớ” lá cờ thứ hai “Đại Nam” thì hết thuốc chữa!!! Dù cũng đã biết vận dụng lệ viết chữ vào cờ của thời quân chủ, nhưng lại tối dạ đến độ phỉ báng văn hoá tư tưởng “tiền nhân”!  Thư pháp (Triện, Lệ, Đại, Chân, Hành, Thảo) thì cái chữ Đại Nam này cũng không ra con giáp nào cả! Nét bút lông cũng không phải, mà nét bút tre cũng không giống..  Như đã nói ở trên, mục đích của Cờ, nhất là “quốc kỳ” hay là cờ khởi nghĩa cũng là muốn hiên ngang minh định CHỦ TRƯƠNG, xác định tư thế đường bệ..cho thiên hạ bá tính biết càng nhiều và càng rõ ràng càng tốt, để nếu không dương oai diệu võ thì cũng xiển dương chính nghĩa. . chứ ai lại đã làm cờ khởi nghĩa, còn ẩn tàng thậm thụt dấu đút như thế, rồi phải mất công nghiêng đầu xoay vải và được “giải thích”  mới hiểu!!!. Không kể đến một điểm mà người ngu dốt kém cỏi như tôi cũng biết, là các cụ mình xưa chữ Nho hay chữ Nôm, đều viết chữ từ phải qua trái, chứ không viết từ trái qua phải như bây giờ, nghĩa là lẽ ra chữ Nam phải ở bên trái -rồi chữ Đại nằm ở bên phải mới đúng cách cơ đấy !!!

Mà cũng kỳ lạ, sau bài viết “Những điều cần phải nói” Tôi trở lại trang của “thằng tây mũi tẹt tóc đen” (chắc chắn Mỹ gốc Ngụy 100%) thì lại thấy nó vẽ thêm râu cho cái cờ Đại Nham (nhở) này. Năm 2004-2005 nó chưng “bằng cớ” cái hình chữ “ai cập đại n(h)am nhở)” một kiểu chổng mong vào nhau; đến năm 2007 lại thấy nó đổi sang nhìn na ná như một ả me mỹ và thằng ma cô Bến Thành!  Mẹ bố khỉ!  Thế thì rõ là thằng này thấy động ổ nên sửa đổi tự vẽ theo lời khuyên (Imagine) “tưởng bở” của John Lenon.

Thôi thôi, giời ạ..Có bàn ra cũng phí nhời..Dân ta vốn đã ngu đần, dại dột vô tâm..Cờ “tổ quốc” 30 năm (1890-1920) treo lủng lẳng nhiều nơì, trong đại sảnh, nơi công thự, mà không ai biết, chẳng ai nhớ..nhưng lại nhớ đến cái cờ chỉ có sống có vài tháng và cách đó cả ngàn năm của bà Triệu!!! Chứ huống gì đến cái cờ “Đại Nham Nhở” của một thằng bá vơ không tên không tuổi vẽ ra, rồi vẽ đi vẽ lại... Nghĩ phát mệt... cho cái thằng ngụy vẽ cờ này quá..!!! Giẻ đã rách rồi, nó có làm nát ra thêm! Mà cũng đã sao đâu? Thiên hạ người ta “cao minh” chẳng ai đếm xỉa đến, chẳng cho là nhục, chẳng cho là bị xúc phạm trí thông minh.. mà sao mình cứ phải xen vào làm gì?

-Nói tóm lại, cái gọi là quốc kỳ tự chủ, theo chúng ta hiểu theo định nghĩa (bịp) của chủ nghĩa quốc gia dân tộc là mang ý nghĩa chính đáng của vị thế quốc gia tự chủ, nhân dân tự do- thì từ khi huyền cấu sử Hùng Vương lập quốc cho đến suốt thời bị Pháp đô hộ là KHÔNG CÓ. Xã hội sinh hoạt CHƯA CÓ Ý NIỆM và nhu cầu QUỐC KỲ này- bởi vì ngưòi xưa không quan niệm như chúng ta hôm nay và không lấy làm quan trọng.
Cho nên một điều chúng ta có thể xác quyết rằng Đế Kỳ Quẻ Ly 1945, chính là Lá cờ đầu tiên mang ý nghĩa và tầm mức chính trị theo quan điểm chủ nghĩa quốc gia -của một quốc gia hiện đại Việt Nam. Sau 168 ngày , quốc gia bảo trợ nó là Đế Quốc Nhật thua cuộc tan rã, Bảo Đại thoái vị, “Đế Quốc Việt Nam” cũng tiêu tan vào ngày 25-8-1945. Sau đó Việt Minh cướp chính quyền, nước Việt Nam mới: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời ngày 2-9-1945 với lá cờ của lũ ăn cướp trá hình Hồ Chí Minh (phỉ kỳ)là cờ đỏ sao vàng.
Tình hình chính trị không ngã ngũ, Pháp dã tâm tái thực dân Việt Nam, 23-9-1945 đem quân trở lại Việt Nam.. và nhân dân Việt Nam mọi tầng lớp lại tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp, trừ Bảo Đại và đám tay sai khoa bảng và lính đánh thuê cho Pháp.. Vì vậy ngày 5-6-1948 "Hèn-ước Hạ Long," thực dân Pháp cho phép Bảo Đại và đám dân Tây (Pháp gốc Việt) lập chính phủ và thành lập nước "Quốc Gia Việt Nam" (lại một cái tên cực kỳ trí tuệ! Thể hiện rõ trình độ và tầm nhận thức chính trị của bọn này)- trong khối Liên Hiệp Pháp, với Quốc Trưởng là Bảo Đại. Lá cờ ba sọc hình quẻ càn mới thật sự được vẽ ra để cho mục tiêu này. Ngụy kỳ  vàng ba sọc tung bay song song với  Phỉ kỳ đỏ sao vàng, dưói háng cờ Tây từ đây, và sau năm 1954 nó bay trong quần cờ Mỹ cho đến ngày 30-4-1975, Mỹ bỏ  đi, thì lăn đùng ra chết.  


--------------------------------------------

 PHẦN BỔ TÚC GÓP Ý CỦA THÂN HỮU anh SÔNGĐỐC:
So sánh và xét theo hiện trạng bối cảnh lịch sử triều Nguyễn, triều đại cuối cùng không phải duy nhất, của Việt Nam, Chúng ta có những dữ kiện như sau:
Theo lập luận của những người bảo vệ “lẽ chính thống cờ vàng” thì “ Cờ Vàng là chính thống, là do nối tiếp từ nhà Nguyễn:
                 1                 2          3            4                5          6              7             8             9                10               11
          Nhưng lập luận thiếu vững chắc:
Theo biểu đồ biên niên về cờ CHÍNH THỐNG, Chúng ta thấy:
1- Nhiều Triều Đại trước đó đánh ngoại xâm- giữ nước an dân, lập triều đại chính thống- KHÔNG CÓ QUỐC KỲ. Quang Trung Hoàng Đế phá quân xâm lược nhà Thanh Trung Quốc giữ nước an dân lập nhà Chính Thống Tây Sơn vì có Chính Nghĩa. Có Đế Kỳ Cờ Đào chính thống.
2- Gia Long sau khi cướp chính quyền-hoang phí u- tối vọng ngoại rập theo nhà Thanh- Đế Kỳ Gia Long là Long Tinh và rồng năm móng.
3- Từ năm 1863 đến 1885 Cờ gì?
4- Sau 1884- Việt Nam hoàn toàn nằm dưới sự CAI TRỊ của thực dân Pháp- Sự phi lý của cờ “Đại Nam” – 5 năm khởi nghĩa mà KHÔNG AI BIẾT, KHÔNG AI NHỚ?
5- Sự phi lý thứ hai “vương kỳ nô lệ” ba sọc bay trong 30 năm mà cũng không ai biết? Không ai nhớ? Kể cả cụ Trần Trọng Kim, sử gia , thủ tướng? Các nhân sĩ, quan lại trong thời cũng không biết, không nhớ?
6- Theo tài liệu đã dẫn cờ Long Tinh này thai nghén trong thời gian đệ nhị thế chiến 1939-1945- không phải sau 1920.
7- Cờ quẻ ly Bảo Hoàng phong kiến cũng không có tính chính đáng dân mệnh, nhưng đủ tư thế ĐẾ KỲ, chứ không phải QUỐC KỲ.
8- Khi Việt Minh cướp chính quyền, dùng cờ đỏ sao vàng tuyên bố nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa..nhưng không chính đáng và chính thống..
9- Đến tháng 8 năm 1948, sau khi hiệp ước Hạ Long ký kết, Pháp cho phép Bảo Đại lập quốc gia trong Liên Hiệp Pháp, Bảo đại lập cờ vàng ba sọc, song song hiện hữu với chính phủ kháng chiến cờ đỏ sao vàng.
10- Pháp trở lại điều hành toàn bộ chính sự và hành chánh Việt Nam nhà nưóc Bảo Đại chỉ là bù nhìn tay sai, thanh tảo kháng chiến Việt Nam với sự trợ giúp ngầm của Mỹ- Trong khi Hồ Chí Minh và Đảng CSVN dùng chiêu bài kháng chiến và thanh trừng loại bỏ các thành phần yêu nước ưu tú không theo cộng sản. Khiến nhiều người bỏ về vùng “TỂ” dù không theo Pháp.
11- Sau Trận Điện Biên Phủ 1954- Geneve Đất nước chia đôi dân tộc chia cắt, Hai phe đứng dưới bóng các thế lực đại cường Nga-Hoa – Mỹ tương tàn cho đến ngày 30-4-1975.
Xét theo tiến trình lịch sử chúng ta thấy:
12- Chính thống là do tính chính đáng, cái nghĩa lý mà nhà nước hay triều đại vương quyền thực hiện với nhân dân tổ quốc. Như vậy trước đó không biết bao nhiêu đời vua dựng nước giữ nước, nhưng chúng ta  không biết, vì các cụ ngày xưa không có quan niệm quan trọng hóa nó, phần vì sự bang giao không rộng, chỉ lẩn quẩn, Hoa, Miên, Lào, Thái v.v Cho đến khi vua Quang Trung đánh quân xâm lược Trung Quốc Nhà Thanh, chúng ta biết có tính chính đáng của chính thống..Cờ Đào. Nhà Nguyễn không có tính chính đáng này, sao gọi là chính thống? Khi Gia Long cướp chính quyền, cũng như Hồ Chí Minh và Đảng CSVN thôi, cầm quyền u tối, làm tàn hại đất nưóc, đến nỗi giặc giã nổi lên, Cao Bá Quát phải phất cờ bỏ “chính thống” khởi nghĩa. Vua quan tham tàn, để nhân dân cùng khổ.. đến nỗi đất nước suy yếu bị thực dân và mất nước. Nhục hèn và xa xỉ đến mức độ nhân dân sĩ phu, như cụ Phan Chu Trinh viết lời lên án..Cầm quyền nhưng không thực hiện được chức năng CHÍNH QUYỀN chỉ là bạo quyền, chẳng khác gì CSVN, làm hại dân, để dân khốn cùng là TÀN, TẶC.  Đến thời 1948- Bảo Đại theo Pháp làm tay sai, sao lại gọi là chính thống?
13- Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Triều Đình hỗn loạn, quan lại làm tay sai.. đám Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả do làm thông dịch viên (thông ngôn) cho Pháp mà được phong quan chức. Ngô Đình Khả và Nguyễn Thân từng theo lệnh Pháp đi bách hại kháng chiến yêu nước như cụ Phan Đình Phùng, nggưòi đã bỏ Triều Đình chính thống vì chính nghĩa đồng bào tổ quốc. Đó là lẽ nghĩa lý, tính chính đáng phẩm tính bắt buộc phải có của chính thống, đó chính là Dân Mệnh.
14- Sau năm 1884, toàn bộ Việt Nam trở thành nô lệ.. phong trào dân chủ nổi lên, như cụ Phan Chu Trinh, lại bị Triều Đình Nguyễn kết tội. Ngoan cố bám quyền..  Các cờ quạt không phải là quốc kỳ mà chỉ là cờ vua của triều đình, Cờ chỉ tiêu biểu cho Vua cho ngôi vị hoàng đế, chứ không tiêu biểu cho nước, cho dân. Sao gọi là chính thống quốc kỳ.
15- Mỗi Vua đều làm theo ý riêng mình, đổi cờ không theo “chính thống tiên đế” cả cái cờ ba sọc, giả thiết là có thật, sao không ai tôn trọng, không ai biết. Khải định -1916-1925-lập cờ “long tinh riêng” chứ không biết , không trọng cờ ba sọc?
16- Vậy cả cái Trriều Đình đã không chính đáng, thì chính thống chỗ nào? Những cái cờ vàng ấy lấy điểm nào mà gọi chính thống, không có tính chính đáng làm tốt cho dân cho nước, nhất là còn làm tay sai cho thực dân nữa. Dân Việt Nam một tròng hai ách: Quan lại vua chúa và thực dân hành hạ bóc lột.
17- Khi Ngô Đình Diệm được ngoại bang Mỹ đem về nước, cũng vô ý thức không nhận ra tính bất chính của lá cờ. Rồi ngay sau khi truất phế cái tính “BẤT CHÍNH THỐNG” của BẢO ĐẠI, bằng cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý (GIẢ) để có CHÍNH ĐÁNG ,
a- Hành động của Ngô Đình Diệm bác bỏ tính chính thống của nhà Nguyễn (Bảo Đại) .
b- Sau khi bác bỏ chính thống Bảo Đại, Ngô Đình Diệm cũng vô ý thức là không lập quốc kỳ mới, loại bỏ lá cờ tay sai không chính thống ấy đi, mà vẫn lưu giữ cái không chính thống, không chính đáng đó. Ngô Đình Diệm quá non nớt kém cỏi về chính trị dân chủ. Gia đình trị, Coi thường đồng bào, đàn áp tôn giáo, hành xử quan liêu như một ông quan. 
18- Nền Đệ Nhị Cộng Hòa do các tướng lãnh quân đội, từng đi lính cho thực dân Pháp, được Mỹ bảo trợ đảo chính tính “chính thống” của Diệm, cũng vô ý thức không đặt quốc kỳ mới. Sau khi chỉnh lý, Thiệu được Mỹ cho lên nắm quyền cũng không chính đáng, chiến đấu theo giá tiền Mỹ Kim: “Mỹ cho 300 triệu thì đánh theo 300 triệu”. Cho nên khi hết tiền Mỹ viện trợ bỏ dân, bỏ nưóc chạy.
19- Khi ra ngoài lưu vong, cũng không biết chọn cờ mới, tiếp tục dùng lá cờ không chính thống, không chính đáng, hành xử thô bạo, độc đoán chống cộng.

Cuộc đấu tranh hôm nay là dân chủ, tính chính đáng chính thống là ở chỗ tôn trọng dân quyền và nhân quyền, chứ không phải cái mầu cờ.
Sông Đốc.
12-2007
 ---------------
Để KẾT LUẬN CHO VIỆC CỜ QUẠT và QUẠT MỘT LẦN CỜ RỒI THÔI này- Với riêng Tôi, thì thôi, Tôi nghĩ bàn một chuyện chẳng đáng thuộc chủ nghĩa quốc gia dân tộc lạc hậu như vậy cũng đã đủ, và rõ ràng với chứng cớ cũng rõ ràng. Nguyên Khả này vốn đã dốt nát, thất học ít chữ, xin dành ít chữ lại để tán gái viết thư tình.  Đã “nửa đời hư” chưa được hân hạnh có vợ để được dạy bảo và được  “cùm mồm”..cứ lộng ngôn gây oán, bị hăm dọa chôn sống nữa cơ đấy...Khổ thế! Xin dành hơi dành chữ để mà tìm một “minh bà, thánh nữ” lãnh đạo đời Tôi vậy. Ai thích Giẻ rách thì kệ họ vậy.
Mà Trần Trọng Kim cũng đã lý sự rất xác đáng là  việc làm của một chính phủ là cốt ở cái nghĩa lý, chứ không phải sự tin nhảm vô ý thức.” .Thật vậy mục tiêu cứu cánh, hay gọi là cái nghĩa lý hôm nay là dân chủ, tự do, nhân phẩm, nhân quyền, dân quyền, chứ đâu phải cứ hung hăng vô ý thức gào thét cờ quạt tranh hơi chính thống. Biết tự trọng tôn trọng sự thật, tôn trọng nhân phẩm của mình và bảo vệ nó đã đủ xoay thời đổi thế, tiêu diệt độc tài, vì đó là chính nghĩa, là đại nghĩa xác thật; chứ cần gì phải nhảm nhí hung hăng ba cái cờ quạt để gạt nhau, lừa nhau, giết nhau.. đến tự hủy diệt cả chính nghĩa, nhân cách, nhân phẩm của mình như vậy.

Ngày xưa Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Khản từ bỏ cái lẽ chính thống nô lệ hạn hẹp để tìm cách xây dựng bảo vệ và phát huy chính nghĩa, lẽ chính đáng là sự hạnh phúc tồn vong của quần chúng, của đất nước nên bỏ nhà Lê chúa Trịnh mà theo Quang Trung. Chính Nguyễn Huệ cũng đã dứt khoát vượt lên trên lẽ chính thống để thực hiện cái điều nghĩa lý, lẽ chính đáng của xã hội nhân dân. Cao Bá Quát dứt bỏ lẽ chính thống với nhà nước, chính quyền để xây dựng lẽ chính đáng, chính nghĩa là hạnh phúc của nhân dân nên khởi nghĩa chống nhà nước triều đình thối nát nhà Nguyễn. Phan Đình Phùng và những ngưòi kháng Pháp chống thực dân đã bỏ lẽ chính thống hy sinh tất cả để đi làm tròn cái nghĩa lý nhân bản hạnh phúc cho nhân quần xã hội.  Những người yêu quí trân trọng nhân phẩm, dân chủ hôm nay cũng vậy, họ rũ áo từ bỏ nô lệ cho cái lẽ chính thống mê muội bám vào chính phủ, nhà nước, để đi tìm cái nghĩa lý chính đáng cho mình và cho xã hội con người. Nhân loại đã vượt lên cái lẽ bán khai chính thống để xây dựng lẽ chính đáng nghĩa lý nhân bản xây dựng bảo vệ nhân phẩm, kiến tạo nền dân chủ nhân bản đã hơn hai trăm năm nay. Con đường nhân chủ, nhân bản không bao giờ chấm dứt, nó liên tục, miên tục và miên viễn.

Hy sinh tận tâm xây dựng và bảo vệ lẽ chính đáng, tính chính nghĩa nhân bản, chứ nô lệ mù quáng cho cái “chính thống” là tự sỉ nhục và hủy diệt.
Chủ nghĩa quốc gia dân tộc với cờ quạt đã lạc hậu và thể hiện sự man rợ hơn mấy trăm năm qua. Người ta đã trưởng thành đi lên với nền nhân trí lấy nhân bản nhân phẩm làm trọng. Cờ quạt đem may quần lót thời trang, in trên bao cao su chống bệnh SIDA.  Thế thì chúng ta còn hùng hổ gấu ó nhau về một cái tấm vải mầu hay tấm giẻ rách, giẻ lau làm chi nữa???
Nói như  nhà văn Ấn Arundhati Roy thì  “ Cờ quạt quốc gia chỉ là những miếng giẻ mầu mà bọn Nhà Nước Chính Phủ dùng trước là để bó nhỏ đầu óc người dân lại, và sau đó dùng làm khăn liệm xác để chôn những xác chết thôi” (Flags are bits of colored cloth that governments use first to shrink-wrap people’s minds & then as ceremonial shrouds to bury the dead.”

Các cụ bảo “làm ngưòi mới khó, chứ làm chó thì dễ”, quả thật là chân lý: Cái đám ngụy vẽ cờ này không muốn làm người ngay thẳng, chỉ muốn làm chó, làm tay sai ngoại bang, thì đồng bào Việt Nam cũng đành phải “thành toàn” cho chúng nó vậy.
Thân Kính
Nguyên Khả Phạm Thanh Chương
25-12-2007 (bản đã bổ túc)

No comments:

Post a Comment