Các đại biểu thảo luận ở Hội thảo Việt Nam học 2008 tại Hà Nội
Một chuyên gia Hàn Quốc đã mạnh dạn đụng đến một chủ đề nhạy cảm khi ông nói hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam
là "chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ xâm lược".
Giáo sư Song Jung Nam, Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc, đặt vấn đề này tại Hội thảo Việt Nam học 2008, khi phân tích tính chất
mở rộng lãnh thổ trong thời Hậu Lê, giai đoạn mở mang được cho là mạnh nhất trong lịch sử.
Mở rộng lãnh thổ
Công cuộc Nam tiến bắt đầu từ năm 1069 khi nhà Lý buộc Chiêm Thành nhường ba châu, đưa cương vực tiến tới tỉnh Quảng Trị ngày
nay.
Tiến sĩ Song Jung Nam lưu ý ngoài chuyện gả Huyền Trân công chúa cho vua Champa để nhận hai châu Ô - Lý, sau đó, thời nhà
Trần "không nhận được một tấc đất nào từ Champa", mà còn "vài lần phải lâm vào thế tự vệ".
Năm 1402, nhà Hồ đánh Chiêm Thành, mở rộng ra đến Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Đến khi quân Minh xâm lược và chiếm Việt Nam, khu vực này bị Chiêm Thành lấy lại.
Theo chuyên gia Hàn Quốc, triều Hậu Lê, bắt đầu từ Lê Lợi, là triều đại "có được nhiều lãnh thổ nhất".
Năm 1470, Lê Thánh Tông đem 26 vạn quân chiếm Chiêm Thành, lấy lại bốn châu bị mất trong thời gian quân Minh cai trị.
Qua cuộc viễn chinh này, Việt Nam cũng mở rộng lãnh thổ tới Bình Định ngày nay.
Ngoài lãnh thổ chiếm được, nhà Lê chia Chiêm Thành thành ba khu vực để "có thể dễ dàng hợp nhất vùng này vào bất kỳ lúc nào".
Đến thời Lý, lãnh thổ chỉ mới kéo đến Quảng Trị |
Tác giả ghi nhận Chiêm Thành, trong thế kỷ 15, còn "ở vùng đệm nên có thể duy trì quan hệ đối ngoại giữa Thái Lan, Campuchia
với Việt Nam."
"Nhưng thời kỳ sau, đối tượng mở
rộng lãnh thổ đến cả Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia hay
Việt Nam - Thái Lan
trở thành mối quan hệ đối lập sâu sắc, thậm chí
Campuchia là trục chiến lược trong sự cạnh tranh của Việt Nam và Thái
Lan."
Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh
Việc mở rộng lãnh thổ diễn ra "sôi động, nhanh và rộng nhất là vào thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh".
Theo tác giả: "Việc mở rộng lãnh thổ
ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được thực hiện thông qua việc hợp nhất
hoàn toàn Chiêm
Thành và sự mở rộng về phía Campuchia đã kéo theo sự
căng thẳng sâu sắc trong quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia và dĩ nhiên
ảnh hưởng tới cả quan hệ Campuchia và Thái Lan."
"Kết quả là ngày nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc biệt Việt Nam - Campuchia hay Thái Lan - Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng
không nhỏ".
Khác với thời kỳ trước, đặc trưng giai đoạn trong thế kỷ 17, khi chúa Nguyễn đi xuống phía Nam, là "chiếm lĩnh đồng thời sát
nhập và hợp nhất lãnh thổ".
Việc mở rộng lãnh thổ ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được thực hiện thông qua việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành và sự mở
rộng về phía Campuchia
|
Tháng Tám năm 1692, chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Chu, chiếm Chiêm Thành và đến năm sau đổi tên thành Thuận Thành, xóa bỏ sự tồn
tại của Chiêm Thành với tư cách một quốc gia.
Kể từ lúc đó, Chiêm Thành đã "trở thành một dân tộc thiểu số của Việt Nam".
Việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành năm 1697 thể hiện "sự vững vàng của một quốc gia thống trị nhưng cũng cho thấy đây là
một mắt xích trong việc thực hiện dư định hợp nhất Campuchia có chung đường biên giới".
Tác giả Song Jung Nam nhắc lại năm
1621, chúa Nguyễn đã "yêu cầu vua Campuchia cho người Việt Nam di trú tự
nhiên, di trú
Thủy Chân Lạp với những hình thức miễn thuế, thương
mại, phát triển. Kết quả là việc di trú đến Campuchia của người Việt
được
bắt đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mũi Xoài thuộc Bà Rịa,
Vũng Tàu bây giờ".
Lúc này, Campuchia muốn thoát khỏi
ảnh hưởng của vương quốc Ayuthaya của Thái Lan, nên đã "mượn sức mạnh
của Việt Nam để thoát
khỏi sự cai trị của Thái, Việt Nam đã có được cơ hội
tiến vào Campuchia một cách hợp pháp và đồng thời trên cơ sở đó, đã có
được cơ hội tuyệt vời để có thể cản trở sự tiến vào
Campuchia của Thái và xâm chiếm lãnh thổ Campuchia".
Năm 1658, lần đầu tiên Việt Nam "có cơ hội gửi quân đội theo yêu cầu của Campuchia để giải quyết phân tranh vương vị và kết
quả là nhận được sự cư trú hợp pháp ở Mũi Xoài, Đồng Nai và nộp cống, thần phục từ Campuchia".
Năm 1679, Việt Nam "đem 50 chiến
thuyền với hơn ba ngàn quân, lợi dụng những người quản lý của nước Minh
Trung Quốc đầu hàng
như Dương Ngan Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên,
Trần An Bình … tiến hành thực hiện việc phát triển Mỹ Tho và Biên Hòa".
'Hỗ trợ và vũ lực'
Tác giả nhận xét việc hợp nhất ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Hà Tiên diễn ra khác phương pháp hợp nhất Chiêm Thành.
"Khi hợp nhất lãnh thổ của Chiêm
Thành, đa số dùng phương pháp chiếm bằng vũ lực nhưng khi hợp nhất lãnh
thổ Campuchia thì
lợi dụng người trong nước hay người nước ngoài trước
hết là khai thác, rồi lợi dụng khi quyền lực cai trị của Campuchia yếu
đi thì hợp nhất một cách tự nhiên."
"Không những thế, ở đây còn cho thấy sự ưu tiên phương pháp nhận lãnh thổ bằng cách hỗ trợ giải quyết nội chiến của Campuchia
hơn là dùng vũ lực trực tiếp."
Khi hợp nhất lãnh thổ Campuchia thì lợi dụng người trong nước hay người nước ngoài trước hết là khai thác, rồi lợi dụng khi
quyền lực cai trị của Campuchia yếu đi thì hợp nhất một cách tự nhiên
|
Riêng đến khi hợp nhất Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, chúa Nguyễn chuyển sang dùng vũ lực bằng ba lần thu phục năm 1732,
1753 và 1757.
Công cuộc mở rộng lãnh thổ về phía Nam vẫn tiếp tục dưới triều đại cuối cùng, nhà Nguyễn.
Năm 1835, dưới thời vua Minh Mạng, danh tướng Trương Minh Giảng tiến quân sang Campuchia, đổi tên Chân Lạp thành Trấn Tây
Thành, sát nhập vào Đại Nam.
Tuy vậy, "cuộc xung đột dành quyền cai trị Campuchia giữa Việt Nam và Thái kéo dài, cộng với việc phản đối sự cai trị của
Việt Nam trên toàn Campuchia và các cuộc phản loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào thế bất lợi".
Năm 1847, nhà Nguyễn ký hiệp định với Thái và rút quân.
Tác giả cho rằng: "Mở rộng lãnh thổ
của Việt Nam bị kiềm chế bởi Thái và Pháp. Nếu giả định trường hợp Pháp
không tiến hành
xâm lược hay không có mâu thuẫn với Thái thì Việt Nam
đã có được một vùng rộng lớn trong lãnh thổ của Lào và Campuchia".
TS. Song Jung Nam kết luận: "Việc mở
rộng lănh thổ của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch
sử nhân loại là
cá lớn nuốt cá bé. Việt Nam đă không ngừng đấu tranh
trong trường kỳ lịch sử để sinh tồn bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn
mình nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh phục Chiêm
Thành và Campuchia yếu hơn."
Việc mở rộng lănh thổ của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé
|
"Điều này thể hiện hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ xâm lược."
"Việt Nam đã trải qua quá trình dân chủ đấu tranh và bồi dưỡng sức mạnh quốc gia rồi trên cơ sở đó hướng đến chủ nghĩa dân
chủ xâm lược và kết quả là xác lập được lãnh thổ phía Nam bây giờ."
Ông nói thêm việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cũng minh chứng cho quy luật lịch sử "giữa các láng giềng không có quan hệ
tốt".
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc tái lập năm 1991, trong khi quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia cũng không mặn mà
từ sự kiện Việt Nam đem quân vào Phnompenh cuối thập niên 1970.
Sang thập niên 1980, quan hệ giữa Hà Nội và Bangkok cũng căng thẳng xung quanh vấn đề Campuchia.
Như trong một hội thảo mới đây về
Vương triều Nguyễn, quan điểm chính thống hiện nay là các chúa Nguyễn đã
"có công mở rộng
lãnh thổ về phía nam đến tận đồng bằng sông Cửu Long
và xác lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới" (GS. Phan Huy Lê trong
hội thảo tháng 10 ở Thanh Hóa).
Diễn giải về quá trình "xâm lược" của Việt Nam trong lịch sử chắc khó lòng nhận được tán đồng từ người Việt Nam.
Dẫu sao, nó cho thấy người bên ngoài có những cái nhìn khác mà bên trong có thể không (muốn) thấy.
Việc bài của GS. Song Jung Nam được
đưa vào Hội thảo Việt Nam tháng 12 tại Hà Nội, cũng như một số nhận định
trái chính thống
về Hồ Chí Minh, là dấu hiệu không khí học thuật trong
nước đã thoải mái và thoáng hơn so với những năm trước đây.
Source: https://www.bbc.com/vietnamese/indepth/story/2008/12/081214_viet_expansion_history.shtml
No comments:
Post a Comment